Phổ Biến 5/2024 # Tuổi Thọ Của Chim Và Chim Sống Được Bao Lâu # Top 7 Yêu Thích

Tuổi thọ của chim và chim sống được bao lâu, loài vật này rất thân thiết với con người. Tuổi thọ của chim không xác định cụ thể, tùy theo từng loài mà tuổi thọ của chúng khác nhau,…

Tuổi thọ của chim và chim sống được bao lâu, loài vật này rất thân thiết với con người. Tuổi thọ của chim không xác định cụ thể, tùy theo từng loài mà tuổi thọ của chúng khác nhau, có những loài chỉ sống được vài năm nhưng có những loài lại sống được tới 102 năm.

Tuổi thọ của chim rất khác nhau tùy theo loài, có thể từ ba đến bốn năm tuổi đối với một số loài chim sẻ và hơn 50 năm đối với một số loài hải âu, và thậm chí hơn 60 năm tuổi đối với một số loài hiếm có như chim kakapo (Strigops habroptilus).

Tuổi thọ của chim và chim sống được bao lâu: Tuổi thọ của chim rất khác nhau tùy theo loài

Trong cùng một loài chim, việc thay lông không những phụ thuộc vào mùa, mà còn vào độ tuổi của chim, do vậy việc biết rõ các thông tin này sẽ giúp tính ra tuổi của nhiều loài chim hoang dã. Ngoài ra mức độ khí hóa khung xương cũng là một đặc điểm được sử dụng để ước tính ra tuổi của chim.

Cho đến nay, con chim già nhất thế giới được ghi nhận là một con vẹt, thọ 102 tuổi, trong điều kiện nuôi nhốt.

Theo thông tin từ Hiệp hội Hoàng gia Bảo vệ chim của Anh ước tính tuổi thọ trung bình của hải âu Manx là 29. Nhưng nhìn chung, tất cả các loài chim biển dường như đều có tuổi thọ cao hơn các loài chim khác. Theo Grantham, điều đó có thể là do chúng sống trong môi trường gần như vắng mặt các kẻ thù tự nhiên.

Chim có danh pháp là Aves, là tập hợp các loài động vật có xương sống, máu nóng, đi đứng bằng hai chân, có mỏ, đẻ trứng, có cánh, có lông vũ và phần lớn là biết bay. Trong lớp Chim, có khoảng 10.000 loài còn tồn tại, giúp chúng trở thành lớp đa dạng nhất trong các loài động vật bốn chi.

Lớp chim cư trú ở các hệ sinh thái khắp toàn cầu, từ vùng Bắc Cực cho tới châu Nam Cực. Các loài chim có kích thước dao động khác nhau, từ nhỏ cỡ 5 cm như chim ruồi cho tới lớn cỡ 2,7 m như đà điểu. Các bằng chứng hóa thạch cho thấy, chim được tiến hóa từ các loài khủng long chân thú trong suốt kỷ Jura.

Vào khoảng 150-200 triệu năm về trước, với đại diện đầu tiên được biết đến, xuất hiện từ cuối kỷ Jura là loài Archaeopteryx (vào khoảng 155-150 triệu năm trước). Hầu hết các nhà cổ sinh vật học đều coi chim là nhánh duy nhất của khủng long còn sống sót sau sự kiện tuyệt chủng kỷ Creta-Paleogen vào khoảng 65,5 triệu năm trước.

Các loài chim hiện đại mang các đặc điểm tiêu biểu như: có lông vũ, có mỏ và không răng, đẻ trứng có vỏ cứng, chỉ số trao đổi chất cao, tim có bốn ngăn, cùng với một bộ xương nhẹ nhưng chắc. Tất cả các loài chim đều có chi trước đã biển đổi thành cánh và hầu hết có thể bay, trừ những ngoại lệ như các loài thuộc bộ Chim cánh cụt, bộ Đà điểu và một số đa dạng những loài chim đặc hữu sống trên đảo.

Chim cũng có hệ tiêu hóa và hô hấp độc nhất mà đáp ứng cao cho hoạt động bay. Vài loài chim, đặc biệt là quạ và vẹt, nằm trong những loài thông minh nhất của giới động vật; một số được quan sát đang chế tạo và sử dụng công cụ, nhiều loài sống thành bầy lại có thể truyền đạt những kinh nghiệm hiểu biết cho thế hệ sau.

Nhiều loài chim hàng năm thường di trú đến những nơi rất xa, cùng rất nhiều loài lại thực hiện những chuyến bay ngắn hơn và bất thường. Chim là động vật sống bầy đàn, chúng giao tiếp với nhau thông qua tiếng kêu và tiếng hót, tham gia vào những hoạt động bầy đàn như hợp tác trong việc sinh sản, săn mồi, di chuyển và tấn công chống lại kẻ thù.

Phần lớn chim là những loài đơn phối ngẫu xã hội, thường vào mùa giao phối trong một thời gian nhất định. Trứng chim thường được đẻ trong tổ và ấp bởi chim bố mẹ. Hầu hết chim non sau khi nở đều có thêm một thời gian được chim bố mẹ chăm sóc.

Nhiều loài chim có tầm quan trọng đối với con người, đa phần được sử dụng làm thức ăn thông qua việc săn bắn hay chăn nuôi. Một vài loài, như phân bộ Sẻ hay bộ Vẹt, được biết đến với vai trò vật nuôi làm cảnh. Hình tượng chim xuất hiện trong tất cả các mặt của văn hóa con người, từ tôn giáo, thần thoại đến thi ca và âm nhạc phổ thông.

Khoảng 120-130 loài chim đã bị tuyệt chủng do hành động con người trong thế kỷ 17, cùng với hàng trăm loài khác sau đó. Hiện nay, có khoảng 1.200 loài đang trong tình trạng đe dọa tuyệt chủng bởi các hoạt động từ loài người, cho dù vẫn đang có những nỗ lực bảo vệ chúng.

Các bằng chứng hóa thạch và phân tích sinh học chuyên sâu đã chứng minh vượt qua bất cứ nghi ngờ có lý nào rằng chim là những loài khủng long chân thú. Cụ thể hơn, chúng là thành viên của Maniraptora, cùng với các nhóm khác như họ Dromaeosauridae và họ Oviraptoridae.

Khi càng nhiều loài khủng long chân thú có mối quan hệ gần gũi với chim được các nhà khoa học phát hiện, thì những điểm khác biệt rõ ràng trước đây giữa chim và loài không phải chim lại càng bị xóa nhòa. Những phát hiện gần đây tại tỉnh Liêu Ninh phía Đông Bắc Trung Quốc, đã chứng tỏ rằng có nhiều khủng long chân thú cỡ nhỏ có lông vũ, lại càng góp phần thêm cho sự không rõ ràng này

Quan điểm đồng thuận trong giới cổ sinh vật học hiện đại cho rằng lớp Chim (Aves), chính là họ hàng gần gũi nhất của cận bộ Deinonychosauria, mà bao gồm hai họ Dromaeosauridae và Troodontidae. Chúng cùng nhau tạo thành một nhóm gọi là Paraves.

Ở chi cơ sở Microraptor của họ Dromaeosauridae, cũng có bộ lông vũ mà có thể được chúng sử dụng để bay lượn. Hầu hết những loài Deinonychosauria cơ sở đều rất nhỏ bé; điều này gia tăng khả năng rằng tổ tiên của tất cả các loài Paraves có thể đã từng sống trên cây, và/hoặc có khả năng chao lượn.

Dù Ornithischia (khủng long “hông chim”) có cấu trúc hông tương đồng với những loài chim hiện đại, chim vẫn được coi là bắt nguồn từ giống khủng long Saurischia (“hông thằn lằn”), mà đã tiến hóa cấu trúc hông của chúng một cách độc lập. Trên thực tế, bên cạnh hai nhóm trên, cấu trúc hông giống chim cũng được tiến hóa trong một nhóm khủng long chân thú riêng biệt, được biết đến là Therizinosauridae.

Vào cuối những năm 1990, bằng chứng về chim là Maniraptora trở nên không thể chối cãi, nên Martin và Feduccia đã chấp nhận phiên bản sửa đổi trong giả thuyết của họ bởi nghệ sĩ dàn dựng khủng long Gregory S. Paul; trong đó những Maniraptora là những loài chim không biết bay thứ cấp, tuy nhiên trong phiên bản đó, chim lại tiến hóa trực tiếp từ Longisquama.

Theo như vậy thì chim vẫn không phải khủng long, nhưng cũng không phải là hầu hết các loài được biết đến mà hiện tại đã được phân loại như khủng long chân thú. Maniraptora, thay vì thế, lại là những loài chim thuộc nhóm Archosaur và không biết bay. Giả thuyết của Martin và Feduccia không được thừa nhận bởi hầu hết các nhà cổ sinh vật học.

Những đặc điểm mà xem như bằng chứng của sự không bay được, theo xu thế chủ đạo của những nhà cổ sinh vật, được giải thích là “sự thích nghi ban đầu” (pre-adation hay exaptation), rằng Maniraptora đã thừa hưởng những đặc điểm từ tổ tiên chung của chúng cùng với các loài chim.

Protoavis texensis được miêu tả năm 1991, coi là loài chim cổ hơn cả Archaeopteryx. Tuy nhiên, những người chỉ trích cho rằng hóa thạch phát hiện có chất lượng bảo quản kém, được phục dựng lại phần lớn, và có thể là một “chimera” (tức được tạo nên từ hóa thạch xương của nhiều loại động vật khác nhau). Hộp sọ của chúng thì gần như rất giống với một loài Coelurosauria thuở ban đầu.

Chim sống và sinh sản ở hầu hết các môi trường trên cạn cũng như ở cả bảy lục địa, trong đó nắm giữ kỷ lục phương Nam là loài hải âu pêtren tuyết khi có thể sinh sản ở khu vực lấn sâu tới 440 kilômét trong châu Nam Cực.

Tính đa dạng cao nhất về các loài chim thuộc những khu vực nhiệt đới. Trước đây, người ta nghĩ rằng tính đa dạng cao là kết quả của tốc độ hình thành loài cao ở những khu vực này, nhưng những nghiên cứu gần đây cho thấy, ở khu vực có vĩ độ cao, tốc độ hình thành loài dù cao hơn nhưng lại bị bù trừ bởi tốc độ tuyệt chủng mà cũng lớn hơn so với vùng nhiệt đới.

Vài họ chim lại có cuộc sống thích nghi ở cả môi trường đại dương, trong số đó, có những loài chim biển vào bờ chỉ duy để sinh sản, và một số chim cánh cụt lại được ghi nhận là có thể lặn ở độ sâu tới 300 mét.

Nhiều loài chim đã thành lập những quần thể giao phối ở những vùng mà chúng được nhập nội bởi con người. Có những loài được nhập nội có chủ ý, ví dụ như loài trĩ đỏ, đã được đưa đi trên toàn thế giới như một loại chim để săn bắt.

Số khác lại mang tính ngẫu nhiên, một ví dụ là sự thành lập của quần thể vẹt thầy tu đuôi dài (Myiopsitta monachus) ở vài thành phố của Bắc Mỹ, sau khi chúng thoát ra khỏi tình trạng nuôi nhốt.

Vài loài khác, bao gồm cò ruồi, diều vằn đầu vàng và vẹt mào ngực hồng đã mở rộng phân bố một cách tự nhiên bên cạnh khu vực phân bố gốc, bởi các hoạt động nông nghiệp đã tạo nên sinh cảnh mới thích hợp cho chúng.

Phân lớp Neornithes gồm:

Paleognathae:

Struthioniformes – Bộ Đà điểu

Tinamiformes – Tinamou

Neognathae:

Anseriformes -Bộ Ngỗng

Galliformes – Bộ Gà

Charadriiformes – Bộ Choi choi (Bộ Rẽ)

Gaviiformes – Chim lặn Gavia

Podicipediformes – Bộ Chim lặn (Bộ Le hôi)

Procellariiformes – Bộ Hải âu (Bộ Chim báo bão)

Sphenisciformes – Bộ Chim cánh cụt

Pelecaniformes – Bộ Bồ nông

Phaethontiformes – Chim nhiệt đới (tropicbird)

Ciconiiformes – Bộ Hạc

Cathartiformes – Kền kền Tân Thế giới

Phoenicopteriformes – Bộ Hồng hạc

Falconiformes – Bộ Cắt

Gruiformes – Bộ Sếu

Pteroclidiformes – Gà cát (sandgrouse)

Columbiformes – Bộ Bồ câu

Psittaciformes – Bộ Vẹt

Cuculiformes – Bộ Cu cu

Opisthocomiformes – Gà móng ở Nam Mỹ (hoatzin)

Strigiformes – Bộ Cú

Caprimulgiformes – Bộ Cú muỗi

Apodiformes – Bộ Yến

Coraciiformes – Bộ Sả

Piciformes – Bộ Gõ kiến

Trogoniformes – Bộ Nuốc

Coliiformes – Chim chuột (mousebird)

Passeriformes – Bộ Sẻ

Chim và gia cầm là một trong những nguồn truyền bệnh chủ yếu ở các cự ly xa đối với con người như các bệnh virút vẹt, bệnh vi khuẩn Salmonella, bệnh vi khuẩn xoắn, bệnh lao gia cầm, cúm gia cầm, sốt hải ly (bệnh do loài ký sinh Giardia lamblia, và bệnh Cryptosporidium gây ra).

Các bệnh này cũng như sự lây lan của chúng cũng được nghiên cứu rất kỹ. Cũng do tầm phổ biến của ngành nuôi gia cầm, việc phát hiện ra các ổ bệnh gia cầm có thể khiến chính quyền địa phương áp dụng các biện pháp triệt để và ngặt nghèo đối với việc chăn nuôi này.

Vào tháng 9 năm 2007, 205.000 con gia cầm tại Bavière đã bị thiêu hủy, 160.000 gia cầm tại Bangladesh cũng đã bị thiêu hủy vào tháng 2 năm 2008 do phát hiện ra ổ dịch cúm gia cầm… Một số bệnh đặc thù như bệnh Pacheco chỉ có ở các loài thuộc bộ Vẹt.

Nuôi chim cảnh là một trong những thú vui của con người, chúng không chỉ là người bạn tâm giao mà còn là niềm vui, là may mắn của mỗi gia đình.

Một số loại chim được nuôi nhiều như họa mi, sơn ca, chích chòe bởi chúng có giọng hót hay lại không khó nuôi.