Chim Chào Mào: Phân Loại/Kiểu Dáng
I. Mô tả và khái quát:
Chim chào mào có tên tiếng Anh là Red-whiskered Bulbul, tên khoa học là (Pycnonotus jocosus) và là một thành viên trong bộ chim sẻ biết hót, được phân bố hầu hết khắp châu Á. Chúng chính là loài được giới thiệu ở các nước nhiệt đới châu Á và do đó, chúng có những khu vực dành riêng do chúng tạo lập. Chúng ăn trái cây và côn trùng nhỏ và dễ thấy trên các nhánh cây vì các "cuộc gọi của họ" từ 1 - 4 âm tiết. Chúng có một cái mào dễ nhận biết, hai má trắng và phía trên "mảng" trắng là màu đỏ do đó khiến chúng có tên tiếng Anh là râu đỏ (Red-whiskered). Tại Việt nam, tùy theo vùng miền mà chúng có tên gọi khác nhau: Hoành hoạch mồng, chóp mũ đỏ, đít đỏ ... nhưng tên thông dụng nhất vẫn là chào mào.
Chúng là một trong nhiều loại chim được mô tả đầu tiên bởi nhà động vật vật - thực vật học - bác sĩ người Thụy Điển Calorus Linnaeus vào năm 1758 trong một tập sách xuất bản viết về các công trình của ông có tên gọi là Systerma Naturae. Trong đó, ông đã đặt chúng cùng với họ bách thanh là "Lanius".
Tại vùng châu Á, chúng có nhiều tên gọi khác. Cụ thể Turaha pigli-Pitta tại Telugu, bulbul Sipahi tại Bengali hay bulbul hoặc Kanera bulbu Phari trong tiếng Hinddi.
Trong tự nhiên, chào mào thường sinh sống trong các khu vực có nhiều cây cối, bụi rậm nhưng không phải là rừng rậm. Môi trường của chúng chính là những chảng cây hay rừng thưa, hầu như chúng xuất hiện vào một thời gian nào đó chưa xác định trong năm với một đàn lớn với rất nhiều cá thể. Với giọng hót đặc biệt, chúng rất dễ dàng xác định vị trí khi đậu trên một nhánh cây cao hoặc trên ngọn cây. Giọng hót được đánh giá là "dễ nghe" với tiếng hót đ& #432;ợc lập lại nhiều lần được miêu tả là Pettigrew-kick hoặc Pettigrew phiên dịch là "tôi muốn gặp mặt". Đó là giọng hót thường được nghe, nhất là những buổi sáng sớm. Tuổi thọ trung bình được ghi nhận là 11 năm.
Mùa sinh sản được bắt đầu từ tháng mười hai đến tháng năm ở miền nam Ấn Độ và từ tháng ba đến tháng mười ở miền bắc Ấn Độ. Có cặp có thể sinh sản 2 lần/năm. Những màn "ve vãn" của con trống là những hành vi như cúi đầu, đuôi nhâm nhấp và cánh rũ xuống. Tổ có hình dạng cốc và được xây dựng ở bụi cây, tường tranh hoặc trong những bụi cây nhỏ. Tổ được kết dính từ các nhánh cây chắc chắn với các thành phần của rể cây và c 7887; và có thể được tạo thêm từ vỏ cây, giấy hay những mảng nilon. Mỗi ổ thường chứa từ 2-3 trứng có màu đất màu hoa cà nhạt với các đốm nâu. Trứng đo được là dài 21 mm và rộng 16 mm. Trứng mất 12 ngày để nở. Chim bố mẹ đều tham gia trong việc nuôi con. Chim non được bố mẹ đút sâu bướm và côn trùng được thay thế bằng trái cây và dâu khi chúng bắt đầu trưởng thành. Trứng và chim non là đối tượng thức ăn của giống chuột lang và quạ. Trong thời gian con non còn trong ổ, khi phát hiện có sự nguy hiểm, chim mái thường giả vờ bị thương hay giả chết để đánh lạc hướng kẻ thù.
Tổ chào mào
Mỗi cặp khi vào mùa sinh sản, chúng sẽ bảo vệ ổ trong một diện tích khoảng 0,3 ha đến 0,75 ha. Thông thường, có đến hàng trăm con và thường ngủ trên một ngọn cây cao và thông thường, những nhánh cây này hay đong đưa.
Việc sinh sản rất dễ dàng trong chuồng nuôi với điều kiện nuôi nhốt. Đặc biệt đã có sự ghi nhận phủ giống lai tạo giữa các loài trong họ hoành hoặch, đó là các loài Pycnonotus cafer, Pycnonotus leucotis, Pycnonotus xanthopygos, Pycnonotus melanicterus và Pycnonotus leucogenys với nh 919;ng cá thể có sắc tố bạch tạng (leucism). (sẽ có phần phụ lục giới thiệu về 5 loài chim trên trong họ hoành hoặch)
Đây là loài chim lồng rất phổ biến tại các vùng Ấn Độ đã được ghi nhận trên tạp chí của Hiệp hội châu Á của Bengal. Chúng yêu cầu nuôi dạy sử dụng thế chiến trận/chiến thuật với dáng vẻ không hề sợ hãi. Chúng cũng được yêu cầu dạy dỗ cho đứng trên lòng bàn tay hoặc ngón tay. Và là loài đang phát triển mạnh mẽ trong thế giới chim lồng ở các vùng tiếp theo tại Đông Nam Á.
Đây là điều làm người viết rất ngạc nhiên và bất ngờ khi biết loài chim chào mào này có đến 9 phân loài. Cả 9 phân loài đều tập trung tại châu Á và đều có hình dáng rất giống nhau. Nhưng sự phân biệt cho từng phân loài cụ thể dựa vào các yếu tố :
- Hình dạng của yếm,
- Độ đậm nhạt và độ dày mỏng của 2 miếng vá đen chạy từ vùng vai xuống bụng,
- Màu sắc phía trên lưng đen hay đen nâu,
- Mức độ bông trắng của phần lông đuôi và đ ộ dài của phần trắng của lông đuôi ấy.
- Phần gốc mũ ở đỉnh đầu rậm hay thưa (như cách gọi so sánh là mũ kim hay sừng mà chúng ta hay gọi).
- Kích thước hình thể to hay nhỏ - ...
Các phân loài có tên và vùng phân bố tập trung được liệt kê sau đây:
Pycnonotus jocosus jocosus (Linneaus, 1758), được tìm thấy ở phía đông nam Trung Quốc - khu vực đông Quý Châu đến Quảng Tây, phía đông Quảng Đông và Hong Kong.
Pycnonotus jocosus fuscicaudatus (Gould, 1866) phân bố tại bán đảo Ấn Độ, khu vực phía tây và trung tâm Ấn Độ. Phần yếm đã gần như hoàn chỉnh và phần màu trắng ở cuống họng (cổ) rõ ràng, không có màu trắng nằm cuối cùng ở lông đuôi. (dể hiểu hơn là đuôi không có bông trắng).
Pycnonotus jocosus abuensis (Whistler, 1931) - Tây Bắc Ấn Độ (phía tây tỉnh Rajasthan, bắc Maharashtra, nhưng vắng mặt tại nhiều khu vực khô hạn). Có yếm đen nhạt màu, trông có vẻ như bị đứt từng đoạn và đuôi cũng không có bông trắng.
Pycnonotus jocosus pyrrhotis (Bonaparte, 1850) - Bắc Ấn Độ (từ phía đông Punjab đến Arunachal Pradesh) và Nepal. Có phần lưng nhạt màu, phần yếm hoàn chỉnh như phân loài Pycnonotus jocosus fuscicaudatus và phần lông đuôi có bông trắng rất rõ ràng.
Pycnonotus jocosus emeria (Linnae us, 1758) - Phía đông Ấn Độ (vùng phía nam đồng bằng sông Hằng đến Rameswaram, ở Tamil Nadu), Bangladesh, phía bắc, tây và nam Myanmar (bao gồm cả Arakan Hills) và cả miền tây nam Thái Lan. Có màu nâu đậm trên lưng, yếm đen mỏng và thanh mảnh, mũ kim - Đây là loài đã được du nhập vào Florida trong khoảng năm 1960 - 1971.
Pycnonotus jocosus whistleri (Deignan, 1948) được tìm thấy trong các quần đảo Andaman, có một màu nâu ấm áp ở phần lưng, có mũ kim, yếm đen dày nhưng ngắn hơn nhiều so với phân loài Pycnonotus jocosus emeria.
Pycnonotus jocosus monticola (Horsfield, 1840) - phân bố phía đông dãy Himalaya ở Đông Bắc Ấn Độ và Tây Tạng, phía đông, phía nam và đông bắc Myanmar và Trung Quốc (khu vực phía tây và nam ở Vân Nam). Có màu trắng ở bụng tối và trông có vẻ "bẩn" hơn.
Pycnonotus jocosus Pattani (Deignan, 1948) - phân bố ở phía cực nam của Myanmar, cực nam ở Tenasserim), Thái Lan, phía bắc bán đảo Malaysia, Lào và nam đông dương Đông Dương.
Pycnonotus jocosus hainanensis (Hachisuka, 1939) - phân bố tại bắc Việt Nam và nam Trung Quốc (khu vực nam Quảng Đông, bao gồm cả Nao Ch ow Tao).
Và một phân loài có tên là Pycnonotus jocosus peguensis được ghi nhận mô tả từ miền nam Miến Điện nhưng đến nay chưa được hiệp hội công nhận.
Minh họa một số hình ảnh của từng phân loài:
Chế độ ăn uống của chim chào mào được điều tra trong mùa sinh sản của chúng vào khoảng tháng 2 đến tháng 6 qua phương pháp phân tích các chất có trong phân trong một công trình nghiên cứu nhằm tìm hiểu sự phân tán các giống cây trồng tại Vườn quốc gia ở Mauritius. Công trình nghiên cứu tính chất phân tán các giống cây/hạt cây được nghiên cứu trong nhiều năm của Simberloff & Von Holle năm 1999, Mack năm 2000, Mandon Dalger vào năm 2004, Traveset & Richardson 2006 cùng các đồng nghiệp đều cho thấy kết quả nh ư sau:
Điều rất ngạc nhiên là chế độ ăn uống của chào mào rất linh hoạt, đặc biệt là các quả chín trên cây có màu đỏ và mọng nước và thải ra các hạt giống gần như nguyên vẹn. Trong đó, có một số hạt giống (chẳng hạn như L. robustum và C. robustum) rất cần chất men có trong chất nhầy được tiết ra trong quá trình hấp thụ của ruột để nảy mầm. Quả là tuyệt vời, các nhà khoa học đang tìm kiếm "kẻ phân tán" các giống cây/cỏ nhằm tái tạo hệ sinh thái kh 7; quyển đang mất dần và chào mào là ứng cử viên trong top ten!
Như vậy, khi chim còn non cần sự phát triển, chim bố mẹ thường sử dụng thức ăn có gốc động vật như kiến, sâu bướm và một số loài ong có nhiều chất đạm (protein) để phát triển. Đến khi trưởng thành, chim có huynh hướng chuyển sang thực phẩm có nguồn gốc thực vật, đặc biệt các loại quả chín mọng và có sắc tố đỏ.
99% nguồn thức ăn chính thì trong đó đến 92,4% là các loại quả có hạt và ch ỉ có 7,4% là thực phẩm có nguồn gốc từ động vật. Phần còn lại chưa xác định được thành phần cũng là loài thực phẩm nằm trong các hạt giống có nguồn gốc từ các giống cây cỏ nhưng chưa có tên.
Thành phần thực phẩm có gốc từ các loại quả mà chim chào mào sử dụng nhiều nhất là:
- Ficus reflexa (họ dâu): 26,7 %
Ligustrum robustum (râm vối): 35,5 %
Ossaea marginata: 25,3 %
Wikstroemia indica: 23,8 %
Thành phần thực phẩm có gốc từ động vật mà chim chào mào sử dụng nhiều nhất là Hymenoptera (c& #244;n trùng): 5,9%.
Đi sâu vào vấn đề của các loại quả chín, mọng nước và có sắc tố đỏ. Sắc tố đỏ được quyết định bởi chất vi lượng gọi là chất sắc (Fe) dưới dạng mà cơ cấu hấp thu của hệ thống tiêu hóa chim chào mào hấp thụ được. Hầu hết các hạt trong quả đỏ ấy đều có thành phần các hợp chất "nhầy nhầy" được bao bọc xung quanh hạt. Chính các lớp "nhầy nhầy" là thành phần đáng kể nhất, cung cấp đa vi lượng chất Fe nhiều nhất cho sự hoạt động tái tạo chất đỏ trên cơ thể chim chào mào. Đó là một cách sống chung để cùng phát triển: Cộng sinh!
Ngoài thức ăn chính là các loại quả và côn trùng, dựa vào cấu trúc lưỡi, chào mào cũng được biết như là chim hút mật. Thành phần mật hoa mà chim chào mào hay sử dụng đó là hoa sung, hoa của cây Ossaea marginata.
Hiện nay, chim chào mào rất phổ biến trên toàn thế giới. So với một số giống chim khác, chim chào mào khi thuần rất "ấn tượng" với người chủ nuôi, giọng hót lại hay, hình thể chim đẹp và nổi bật chóp mào đen. Khi chim căng có thể hót cả ngày. Khi hót lại bung cánh, nhảy cầu đẹp. Ai nhìn mà chả thích lại muốn sở hữu cho riêng mình?
Một giống Chào mào tại Hongkong, Trung Quốc
Tại Sysney - Úc, năm 1880 Hiệp hội động vật học đã giới thiệu chim chào mào là loài chim có nguồn gốc từ Trung Quốc. Cũng từ một vài cá thể đã trốn thoát, đến năm 1920, chúng được ghi nhận là phân bố khắp các khu vực ngoại ô ở Sysney và tiếp tục lấn thêm hơn 100km. Hiện nay, chúng cũng được tìm thấy ở ngoại ô Melbourne và Adelaide.
Chào mào nói chung rất siêng hót, những cụm từ ngắn như tiếng huýt gió "witiwet", giọng trong trẻo, to nhưng nghe khá "ấm áp".
Chim chào mào có tập tính định cư, thường tập trung ở các khu vực có bụi rậm và có các cây to chết khô, hoặc gần các khu vực do con người canh tác, các khu vườn ở ngoại ô thành phố.
Vào mùa sinh sản, chúng thường tập trung thành một đàn lớn với rất nhiều cá thể và làm nên một chương trình "đại nhạc hội" ồn ào. Chúng ăn trái cây và hút mật hoa có trong vườn, một số chồi non, nhặt những hạt cỏ và côn trùng trên mặt đất. Đối với người nông dân họ coi đây là hành vi phá hoại mùa màng. Khi mùa khô bắt đầu, chúng cũng phân tán và thiết lập những vùng lãnh thổ riêng biệt trong phạm vi từ 0.3 đến 0.7 ha và bắt đầu làm tổ.
Trong thời gian "tán tỉnh" chúng có hành vi như vung cánh, gật gù đầu, xòe cánh và đuôi, thỉnh thoảng nhảy lên cao và thả mình lơ lửng... Chúng được ghi nhận là thủy chung, sống một vợ một chồng.
Tổ thường làm trong bụi cây rậm rạp hay trong các bụi dây leo, ở những chảng ba của cây và cao khoảng từ 3 - 9 feet (khoảng 9 - 20 mét) so với mặt đất.
Tổ được làm từ lá cây khô, cành cây đôi khi cũng dệt bằng mạng nhện. Được lót bằng cỏ mềm, rễ non, thỉnh thoảng có t 43;c người. Trong ổ, đôi khi có thêm vỏ cây và những mảng nilon nhiều màu sắc.
Chim mái đẻ từ 2 - 4 trứng có màu hồng, trắng và những đốm nâu. Thời gian ấp trứng từ 12 - 14 ngày. Chim non được cung cấp thức ăn từ bố lẫn mẹ với thức ăn chủ yếu là côn trùng - gồm có sâu bướm, kiến..., Đến ngày 18, chim non bắt đầu ra lông. Khi chim non bắt đầu ra lông cánh, bắt đầu tập bay, chim được bố mẹ chuyển sang thực phẩm chủ yếu là trái cây, đặc biệt là loại nằm trong họ dâu - trái dâu tây có thể là thức ăn mà chim bố mẹ mớm cho con đầu tiên. M ỗi mùa sinh sản, tùy theo độ tuổi và mức độ phong phú của thức ăn có trong tự nhiên, mỗi cặp có thể "sản xuất" từ 2 - 3 lứa.