Chào mào là chim Châu Á, từ Ấn độ với phía Nam Trung Quốc và kéo dài xuống phía Đông Nam á xuống Singapore-Indonsesia. Sau này được nhập vào Australia và đã sinh sản một số chim CM tức là gốc Châu Á. Được nhập vào tiểu bang Haiwaii ở Mỹ và tiểu bang tôi ở bây giờ là Florida. Nghe nói hồi thập niên 60 có nhập từ Ấn độ qua vài cặp và qua cơn bão. Chúng đã thoát ra và đã sinh sản được cũng trên 100 con. Tôi có xuống nhưng chưa thấy ngoài hoang dã, có thể là do xuống buổi trưa nên chim không bay ra ngoài hót. Có thể mùa này sinh sản có thể tìm thấy, bởi đã có vài hình ảnh người Mỹ đi du lịch xem chim đã chụp thấy có. Về hình dáng thì: chim CM quanh thế giới đều có net như nhau to hoặc nhỏ, và giọng có thể khác nhau do vùng chim. Riêng Ấn Độ thì: chim có cách tách đỏ rất to và lại có loại CM không có chấm trắng nơi đuôi. Về ở VN ta thì theo nghiên cứu của Giá Sư Võ Quý thì, từ HN xuống đèo Hải Vân là một giống, có hình dáng to con. Từ đèo Hải Vân và đổi Cao Nguyên Trung Phần xuống mà Nam là một giống. Và có hình dáng thân hình nhỏ con hơn một tí. có tên tiếng Anh là Red-whiskered Bulbul, tên khoa học là (Pycnonotus jocosus) và là một thành viên trong bộ chim sẻ biết hót, được phân bố hầu hết khắp châu Á. Chúng chính là loài được giới thiệu ở các nước nhiệt đới châu Á và do đó, chúng có những khu vực dành riêng do chúng tạo lập. Chúng ăn trái cây và côn trùng nhỏ và dễ thấy trên các nhánh cây vì các “cuộc gọi của họ” từ 1 – 4 âm tiết. Chúng có một cái mào dễ nhận biết, hai má trắng và phía trên “mảng” trắng là màu đỏ do đó khiến chúng có tên tiếng Anh là râu đỏ (Red-whiskered). Tại Việt nam, tùy theo vùng miền mà chúng có tên gọi khác nhau: Hoành hoạch mồng, chóp mũ đỏ, đít đỏ … nhưng tên thông dụng nhất vẫn là
Chúng là một trong nhiều loại chim được mô tả đầu tiên bởi nhà động vật vật – thực vật học – bác sĩ người Thụy Điển Calorus Linnaeus vào năm 1758 trong một tập sách xuất bản viết về các công trình của ông có tên gọi là Systerma Naturae. Trong đó, ông đã đặt chúng cùng với họ bách thanh là “ Turaha pigli-Pitta bulbul Sipahi Kanera bulbu Phari Pettigrew-kick II. Sinh sản, hành vi sinh thái:
(sẽ có phần phụ lục giới thiệu về 5 loài chim trên trong họ hoành hoặch) Đây là loài chim lồng rất phổ biến tại các vùng Ấn Độ đã được ghi nhận trên tạp chí của Hiệp hội châu Á của Bengal. Chúng yêu cầu nuôi dạy sử dụng thế chiến trận/chiến thuật với dáng vẻ không hề sợ hãi. Chúng cũng được yêu cầu dạy dỗ cho đứng trên lòng bàn tay hoặc ngón tay. Và là loài đang phát triển mạnh mẽ trong thế giới chim lồng ở các vùng tiếp theo tại Đông Nam Á. – Phần gốc mũ ở đỉnh đầu rậm hay thưa (như cách gọi so sánh là mũ kim hay sừng mà chúng ta hay gọi).
Các phân loài có tên và vùng phân bố tập trung được liệt kê sau đây:
Pycnonotus jocosus jocosus (Linneaus, 1758) , được tìm thấy ở phía đông nam Trung Quốc – khu vực đông Quý Châu đến Quảng Tây, phía đông Quảng Đông và Hong Kong.
Pycnonotus jocosus pyrrhotis (Bonaparte, 1850) – Bắc Ấn Độ (từ phía đông Punjab đến Arunachal Pradesh) và Nepal. Có phần lưng nhạt màu, phần yếm hoàn chỉnh như phân loài Pycnonotus jocosus fuscicaudatus và phần lông đuôi có bông trắng rất rõ ràng.
Pycnonotus jocosus whistleri (Deignan, 1948) được tìm thấy trong các quần đảo Andaman, có một màu nâu ấm áp ở phần lưng, có mũ kim, yếm đen dày nhưng ngắn hơn nhiều so với phân loài Pycnonotus jocosus emeria.
Pycnonotus jocosus Pattani (Deignan, 1948) – phân bố ở phía cực nam của Myanmar, cực nam ở Tenasserim), Thái Lan, phía bắc bán đảo Malaysia, Lào và nam đông dương Đông Dương.
Pycnonotus jocosus peguensis được ghi nhận mô tả từ miền nam Miến Điện nhưng đến nay chưa được hiệp hội công nhận. Minh họa một số hình ảnh của từng phân loài
Masinagudi-Ooty Road, Khu Nilgiris, Tamil Nadu, Ấn Độ (ssp fuscicaudatus)
Chiang Mai, Chiang Mai, tỉnh Tây Bắc Thái Lan, Thái Lan (ssp
Qua đó, xác định giới tính con mái có những đặc điểm như:
Con mái: lông đỏ ngắn hơn con trống, chiều dài cánh ngắn hơn (kích thước do được là 78 – 85 mm), dáng nhỏ con.
Con trống: Chiều dài cánh dài hơn, kích thước từ 83 – 91, lông đỏ dài và dày hơn.
Sự khác biệt giữa hai giới tính ở chim (ảnh dưới) – con bên trái là con mái được so sánh cùng độ tuổi.
Đi sâu vào vấn đề của các loại quả chín, mọng nước và có sắc tố đỏ. Sắc tố đỏ được quyết định bởi chất vi lượng gọi là chất sắc (Fe) dưới dạng mà cơ cấu hấp thu của hệ thống tiêu hóa chim chào mào hấp thụ được. Hầu hết các hạt trong quả đỏ ấy đều có thành phần các hợp chất “nhầy nhầy” được bao bọc xung quanh hạt. Chính các lớp “nhầy nhầy” là thành phần đáng kể nhất, cung cấp đa vi lượng chất Fe nhiều nhất cho sự hoạt động tái tạo chất đỏ trên cơ thể chim chào mào. Đó là một cách sống chung để cùng phát triển: Cộng sinh!
Họ Chào mào (danh pháp khoa học: Pycnonotidae) là một họ chứa các loài chim biết hót kích thước trung bình thuộc bộ Sẻ, sinh sống tại châu Phi và nhiệt đới châu Á. Họ này chứa khoảng 130 loài. Tên gọi phổ biến trong tiếng Việt là chào mào, bông lau, hoành hoạch và cành cạch, trong đó tên gọi cành cạch được dùng cho các loài chim trong chi Criniger và Hypsipetes theo phân loại của Howard-Moore còn tên gọi chào mào là tên gọi dân dã cho ‘chào mào ria đỏ’ (Pycnonotus jocosus). Tên gọi này cũng áp dụng cho chi Spizixos và một vài loài khác trong chi Pycnonotus. Bông lau được sử dụng cho phần lớn các thành viên của chi Pycnonotus (ngoại trừ những loài nào gọi là chào mào). Tuy nhiên do không phải loài nào cũng có mặt tại Việt Nam nên trong bài gọi chung là chào mào khi có thể.
Chào mào má trắng, Pycnonotus leucogenys
Cành cạch tai nâu, Microscelis amaurotis (đôi khi gộp trong chi Ixos)
Chi Ixos (cận ngành) Gần với Hemixos
Cành cạch xám hay chào mào xám tro, Hemixos flavala
Cành cạch mỏ móc, Setornis criniger
Cành cạch ô liu, Iole virescens
Họ Chào mào (danh pháp khoa học: Pycnonotidae) là một họ chứa các loài chim biết hót kích thước trung bình thuộc bộ Sẻ, sinh sống tại châu Phi và nhiệt đới châu Á. Họ này chứa khoảng 130 loài.
Chào mào mỏ lớn, Spizixos canifrons
Tên gọi phổ biến trong tiếng Việt là chào mào, bông lau, hoành hoạch và cành cạch, trong đó tên gọi cành cạch được dùng cho các loài chim trong chi Alophoixus, Hemixos, Hypsipetes, Iole và Ixos còn tên gọi chào mào là tên gọi dân dã cho ‘chào mào ria đỏ’ (Pycnonotus jocosus). Tên gọi này cũng áp dụng cho chi Spizixos và một vài loài khác trong chi Pycnonotus. Bông lau được sử dụng cho phần lớn các thành viên của chi Pycnonotus (ngoại trừ những loài nào gọi là chào mào). Tuy nhiên do không phải loài nào cũng có mặt tại Việt Nam nên trong bài gọi chung là chào mào khi có thể.
Các loài chim này chủ yếu là chim ăn quả. Một số có màu sặc sỡ với huyệt, má, họng, lông mày có màu vàng, đỏ hay da cam, nhưng phần lớn có bộ lông buồn tẻ với màu chủ đạo là đen hay nâu ô liu đồng nhất. Một số loài có mào rất đặc biệt.
Nhiều loài sinh sống trên phần ngọn của cây cối trong khi một số loài chỉ sống ở các tầng cây thấp. Chúng đẻ tới 5 trứng có màu hồng tía trong các tổ trên cây và chim mái ấp trứng.
Chào mào (Pycnonotus jocosus) sinh sống rộng rãi trong vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, chẳng hạn ở miền nam Florida, Hoa Kỳ.
Các sắp đặt truyền thống chia các loài chào mào thành 4 nhóm, gọi là các nhóm Pycnonotus, Phyllastrephus, Criniger và Chlorocichla theo các chi đặc trưng này. Tuy nhiên, các phân tích gần đây chứng minh rằng kiểu sắp xếp này có lẽ đã dựa trên diễn giải sai lầm các đặc trưng:
Greenbul vàng kim, Calyptocichla serina
Chào mào thuộc về nhóm Pycnonotus châu Á.
Chi Pycnonotus (cận ngành)
Chào mào vàng đầu đen, Pycnonotus atriceps
Bông lau họng vạch hay chào mào họng sọc, Pycnonotus finlaysoni
Chào mào ria đỏ hay chào mào, Pycnonotus jocosus
Bông lau ngực nâu hay chào mào ngực nâu, Pycnonotus xanthorrhous
Chào mào lưng bồng, Pycnonotus eutilotus
Chào mào đen trắng, Pycnonotus melanoleucus
Chào mào vàng mào đen, Pycnonotus melanicterus
Cành cạch Philippine, Hypsipetes philippinus – trước đây trong chi Ixos
Chào mào bụng xám, Pycnonotus cyaniventris
Bông lau nâu nhỏ hay chào mào bốn mắt, Pycnonotus erythropthalmos
Chào mào đầu vàng rơm, Pycnonotus zeylanicus
Chào mào mắt đỏ, Pycnonotus brunneus
Chào mào cánh ô liu, Pycnonotus plumosus
Bông lau mày trắng hay chào mào huyệt vàng, Pycnonotus goiavier
Chào mào ngực đen, Pycnonotus nigricans
Chào mào má trắng, Pycnonotus leucogenys
Chào mào thường, Pycnonotus barbatus
Chào mào vạch hay chào mào vằn, Pycnonotus striatus
Chào mào sọc kem, Pycnonotus leucogrammicus
Chào mào cổ đốm, Pycnonotus tympanistrigus
Chào mào đầu xám, Pycnonotus priocephalus
Chào mào Styan, Pycnonotus taivanus
Chào mào ngực vảy, Pycnonotus squamatus
Bông lau Trung Quốc hay chào mào huyệt sáng, Pycnonotus sinensis
Chào mào Cape, Pycnonotus capensis (loài điển hình)
Chào mào kính trắng, Pycnonotus xanthopygos
Chào mào tai trắng, Pycnonotus leucotis
Bông lau đít đỏ hay chào mào huyệt đỏ, Pycnonotus cafer
Bông lau tai trắng hay chào mào đầu than hoặc bông lau đít đỏ, Pycnonotus aurigaster
Chào mào yếm lam, Pycnonotus nieuwenhuisii (tranh cãi)
Chào mào yếm vàng, Pycnonotus urostictus
Chào mào đốm cam, Pycnonotus bimaculatus
Chào mào họng vàng, Pycnonotus xantholaemus
Chào mào tai vàng, Pycnonotus penicillatus
Bông lau vàng hay chào mào Flavescent, Pycnonotus flavescens
Chào mào trán trắng, Pycnonotus luteolus
Bông lau tai vằn hay chào mào tai sọc, Pycnonotus blanfordi
Chào mào huyệt kem, Pycnonotus simplex
Chào mào khoang cổ, Spizixos semitorques
Chào mào mỏ lớn, Spizixos canifrons
Chào mào khoang cổ, Spizixos semitorques
Cành cạch lưng rậm lông, Tricholestes criniger
Cành cạch mỏ móc, Setornis criniger
Chi Alophoixus – trước đây gộp trong chi Criniger, có thể là đa ngành
Cành cạch Finsch, Alophoixus finschii
Cành cạch họng trắng, Alophoixus flaveolus
Cành cạch lớn hay cành cạch họng bồng, Alophoixus pallidus
Cành cạch bụng hung hay cành cạch đất son, Alophoixus ochraceus
Cành cạch má xám, Alophoixus bres
Cành cạch bụng vàng, Alophoixus phaeocephalus
Cành cạch vàng kim, Alophoixus affinis
Cành cạch ô liu, Iole virescens
Cành cạch nhỏ hay chào mào mắt xám, Iole propinqua
Cành cạch huyệt vàng da bò, Iole olivacea
Cành cạch trán vàng, Iole indica
Cành cạch xám hay chào mào xám tro, Hemixos flavala
Cành cạch hung hay chào mào nâu dẻ, Hemixos castanonotus
Cành cạch Mã Lai hay chào mào sọc, Ixos malaccensis
Cành cạch bụng vàng, Ixos palawanensis – Hypsipetes?
Cành cạch ngực sọc, Ixos siquijorensis – Hypsipetes?
Cành cạch vàng nhạt, Ixos everetti
Cành cạch Zamboanga, Ixos rufigularis
Cành cạch núi hay chào mào núi, Ixos mcclellandii
Cành cạch Sunda, Ixos virescens
Cành cạch tai nâu, Microscelis amaurotis (đôi khi gộp trong chi Ixos)
Cành cạch Philippine, Hypsipetes philippinus – trước đây trong chi Ixos
Cành cạch Madagascar, Hypsipetes madagascariensis
Cành cạch đen hay chào mào đen, Hypsipetes leucocephalus
Cành cạch Seychelles, Hypsipetes crassirostris
Cành cạch thông thường, Hypsipetes parvirostris
Cành cạch Reunion, Hypsipetes borbonicus
Cành cạch Mauritius, Hypsipetes olivaceus
Cành cạch Nicobar, Hypsipetes virescens
Cành cạch đầu trắng, Hypsipetes thompsoni
Greenbul điển hình và đồng minh
Chi Phyllastrephus (19 loài)
Chi Andropadus (12 loài; có thể đa ngành)
Chi Thescelocichla – Greenbul đầm lầy
Chi Chlorocichla (6 loài)
Chi Ixonotus – Greenbul đốm (đặt vào đây không chắc chắn)
Chi Bleda – chim mỏ cứng (3 loài)
Chào mào vòng cổ đen, Neolestes torquatus
Nó có thể là đồng minh của chi Calyptocichla hay không phải là chào mào thật sự.
Tách ra gần đây từ Pycnonotidae
Greenbul mỏ dài ở Madagascar hiện nay được coi là thuộc về nhóm chích Malagasy.
Hiện nay trong chích Malagasy
Chi Bernieria – trước đây trong chi Phyllastrephus
Greenbul mỏ dài, Bernieria madagascariensis
Chi Xanthomixis – trước đây trong chi Phyllastrephus; có thể đa ngành
Greenbul khoang mắt, Xanthomixis zosterops
Tetraka Appert, Xanthomixis apperti
Greenbul tối màu, Xanthomixis tenebrosus
Greenbul đầu xám, Xanthomixis cinereiceps
Nicator đốm vàng, Nicator chloris
Nicator miền đông, Nicator gularis
Chào mào thuộc về nhóm Pycnonotus châu Á.
Bông lau họng vạch hay chào mào họng sọc, Pycnonotus finlaysoni
Bông lau ngực nâu hay chào mào ngực nâu, Pycnonotus xanthorrhous
Chào mào lưng bồng, Pycnonotus eutilotus