Thịnh Hành 5/2024 # Sài Gòn Năm Xưa Sai Gon Nam Xua Doc # Top 8 Yêu Thích

Sài Gòn Năm Xưa

Kính dâng Ba tập biên khảo thường đàm nầy để tưởng niệm những phút êm đềm đã qua: Năm 1919, Ba đưa con lên Sài Gòn vô trường lớn. Con bắt đầu nếm mùi cháo cá Chợ Cũ, hủ tíu Chợ Mới, xem hát thì Chùa Bà Chợ Lớn, nhai thịt bò kho thằng Lù, có năm cắc leo chuồng gà ngồi coi hát Tây, và cảnh không còn gặp nữa là: bữa bữa hai cha con thượng cao lâu ăn cơm xá xíu. Năm 1927, Ba lên thăm, con mua bánh Catinat, lòng mừng dâng Ba món lạ. Ba không dùng, hỏi con: “Chữ Hiếu” sao có đắt tiền? Năm nay 1960, đầu con bạc mà túi vẫn nhẹ, muốn mua bánh, Ba không lên: xe giằn, đường xa, hai con đò Cái Vồn và Mỹ Thuận vẫn có tiếng không lịch sự đối với hành khách “bát thập lão ông” như Ba vậy! Những ký-ức bấy lâu, con viết gởi về: “Vương Trạch Nhựt, cháu hãy đọc lớn cho Nội nghe”.

Gia Định, đường Rừng Sác, số 5, ngày 26 tháng 5 năm 1960

SẾN

1. Cõi Nam từ năm 1658 đến năm 1753

Lúc ấy đã có người Cam Bốt ở trên đất Nam nầy rồi. Nói chính đáng mà nghe, từ Huế, Chúa Hiền Vương đã từng cắt quân đi chinh phục miền Nam . Quân ta cả thắng Chàm và sau những chiến công rực rỡ, dân Việt đã có dịp chen vai thích cánh với người Khơ me, nơi những vùng biên giới cũ Chàm, kể từ năm 1658. Một điều nên nhớ kỹ, là vào thời buổi ấy, DÂN THƯA ĐẤT RỘNG, DÂN LÀM ĂN KHÔNG HẾT, việc đi khai khẩn đất hoang là thường sự và không hề sanh ra việc gì rắc rối. Tục thường ví “CHIM TRỜI CÁ NƯỚC”, ai bắt được nấy nhờ. Một điều khác cần nói rõ thêm là đất miền Nam của bán đảo Ấn Độ – Chi Na cũng không phải thiệt thọ “phần đất phụ ấm” của Khơ me. Sự thật thì dòng thổ dân tiên chiếm vùng nầy là giống Phù Nam đã bị tiêu diệt từ thế kỷ thứ VII, và có thể người Khơ Me chiếm thay người Phù Nam từ thế kỷ thứ VII, lại mấy có sự đòi hỏi tranh tụng gì? Tha hồ lúc ấy ai khai phá được khoảnh nào thì nấy làm chủ ăn hoa lợi. Và như đã nói “đất ở không hết”, tội gì tranh giành cho nhọc lòng lo, cho mệt xác. Sợ nhứt là làm như vậy, chỉ sanh oán thù, ích gì? Gương xưa tích cũ còn trước mắt sờ sờ: – Pháp quốc đã giàu mạnh, nhưng còn nhà đất Gia Nã Đại, chẳng qua lúc ấy vừa chê xa xôi, vừa chê ít hoa lợi… – Trung quốc là nước lớn, thế mà cắt đất Mã Cao để làm nhượng địa cho Bồ Đào Nha, rồi cũng cắt đứt Hương Cảng làm nhượng địa cho Anh Quốc, chung quy cũng vì thời buổi ấy hai chỗ nầy chỉ núi đá trơ trơ, toàn đất hoang vu không sanh hoa lợi, “mất” hay “bỏ” vẫn không tiếc… Nhắc lại, sau khi nhà Minh bên Trung Quốc bị nhà Mãn Châu thay thế, thì năm 1680, bọn di thần Minh triều như Dương Ngạn Địch, Huỳnh Tấn, Trần Thắng Tài, v.v… tự xưng người “Trường Phát” (tóc dài) không khứng đầu hàng Thanh triều, vì họ ghét tục dân Mãn Châu cạo đầu gióc bín (để đuôi sam như đuôi lừa). Bởi rứa, theo sử chép lại, các tướng ấy dìu dắt độ ba ngàn tinh binh trung thành với cựu trào, lướt sóng trên năm mươi, sáu mươi chiến thuyền vượt trùng dương tìm xuống miền Nam, xin đầu hàng chúa Nguyễn, vì dân Nam cũng để tóc dài và trung thành với đạo Khổng Mạnh như họ. Đứng trước tình trạng khó xử này, chúa Hiền Vương trong lòng bối rối không vừa, vì kỳ trung chúa chẳng muốn gần gụi đám vong thần bất trị ấy; nhưng với trí tinh khôn có thừa, ngoài mặt chúa giả cách niềm nở tận tình. Chúa bày tiệc khoản đãi quân sĩ nhà Minh rồi “tống khứ” họ xuống miền Đông Phố [2], cho họ được phép chiếm cứ vùng Đồng Nai thưở đó tuy thuộc lãnh thổ Khơ Me, nhưng Miên Vương tỏ ra không bận tâm nhiều đến vùng hoang địa ranh mức tầm ruồng nầy. Như thế, nhơn một mũi tên, chúa Nguyễn bắn được hai chim; một đàng, được lòng người Tàu vì làm cho họ có chỗ dung thân, đàng khác nhơn cơ hội, mượn tay tha nhơn, mở rộng bờ cõi một cách hòa bình, không tốn hao binh sĩ; thật là ngón ngoại giao sắc cạnh khôn bì. Nhắc lại, được lịnh Chúa Nguyễn, tướng Dương Ngạn Địch kéo quân xuống chiếm đóng vùng Mỹ Tho trên sông Tiền Giang (Mékong); còn Trần Thắng Tài, Huỳnh Tấn, và Trần An Bình thì đem bổn bộ binh mã đến chiếm cứ vùng Biên Hòa, trên con sông Đồng Nai. Vì không nói được chữ “đ” nên họ vẫn gọi “Đồng Nai” ra “Nồng Nại”. Khi người Khơ Me đụng độ với người Tàu thì đã lấy làm bực mình vì phong tục khác xa, không dè đến khi ăn chung ở lộn với dân “duồng”, họ lại càng thêm khó chịu. Họ ngầm ghét đám dân “Đồn điền” mới. Lần hồi, không cử động binh đao, mà người Cam Bốt (Campuchia) tự rút lui về miền thượng Lục Chân Lạp (Haut Cambodge) bỏ đất hoang Thủy Chân Lạp (Basse Cochinchine) cho mặc tình người Trung Quốc và Việt Nam tha hồ khai phá. (Cái nghiệp “hay hờn mát” và “ưa giận quàng xiên” của người Miên đến nay vẫn chưa bỏ. Tỷ dụ như lối năm 1920, dân Miên và dân Việt đua nhau khai thác xin khẩn đất hoang dọc theo kinh xáng mới đào vùng Phước Long và Vĩnh Qưới (Rạch Giá) để làm ruộng. Mỗi khi đôi bên không thuận nhau về quyền tiên chủ sở đất nào, thì người Miên thường thách đố người Việt hãy đồng lòng đem sở đất tranh chấp “hiến nạp” ngon lành cho viên chức sở tại, như vậy thì họ sẽ hết giận, báo hại quan thinh không phát tài ngang! Nhưng người Việt đâu chịu làm vậy và thường có cách khéo giải hòa với bạn Miên khỏi “làm giàu vô cớ” cho quan! Duy ngày nay, còn giận ai nữa mà Miên vẫn cất nhà xây mặt tiền vào vườn, ít chịu xây mặt ra đường cái hay ngó ra con sông tấp nập? Nhắc lại năm Giáp Dần (1674), Chúa Hiền đã tầng sai binh xuống can thiệp vào việc nội bộ nước Miên do Nặc Ông Non cầu cứu dẹp hộ binh Xiêm. Đến khi vua Miên thấy cảnh ở Sài Gòn bị kẹp giữa hai gọng kềm “Chệc” [3], bèn cầu cứu với triều Huế, Chúa Hiền nhân cơ hội ấy để sai nha trảo xuống dàn xếp… Thêm một cơ hội may mắn đến cho triều Huế là vào năm 1688 giữa người Tàu Mỹ Tho và người Tàu Cù Lao Phố sanh ra sự bất hòa lớn. Chúa Hiền khi ấy đã mất, nhưng Ngãi vương nối ngôi không kém sự trí mưu. Huỳnh Tấn giết Dương Ngạn Địch, binh chưa lại nghỉn thì kế bị Chúa Ngãi ra tay trước, giết Huỳnh Tấn, dẹp tan đám giặc khách sót lại ở Mỹ Tho mà làm chủ tình thế hai thị trấn tân tạo Mỹ Tho và Cù Lao Phố (Biên Hòa). Chúa thừa thắng cho binh tướng kéo rốc lên Cam Bốt tới trước thành Gò Bích, Miên Vương một mặt dẫn phi tần về thành U Đông, mặt khác sai sứ nạp biểu. Chúa Ngãi cho dân, quân về an dinh lập trại Bến Nghé. Công việc ấy gọi là “đồn dinh” [4]. Thuở đó, xứ Cam Bốt có đến hai vua: – Vua Nhứt, Chánh Vương, ngự tại thành Lo Vek (sách sử Việt âm là “La Bích” hoặc “Gò Bích” (Trương Vĩnh Ký); (trong Việt Nam Sử lược, Trần Trọng Kim, trang 329, ghi “thành Long Úc”, phải Lo Vek này chăng?!) – Vua Nhì, tức Phó Vương, đóng đo tại Prei Norkor, sau này Sài Gòn. Một nước hai vua, một xứ hai mặt trời, đây là một tình thế lưỡng lập vạn bất đắc dĩ, không bao giờ tồn tại được lâu. Về sau, nếu có xảy ra sự di dân Khmer tự mình bỏ Thủy Chân Lạp rút lui về Lục Chân Lạp, âu cũng vì một lẽ Chánh Vương ngầm muốn để còn một vua đặng dứt hậu hoạn về sau, một lẽ nữa, cũng tại lòng dân Miên mà cũng có tay Trời già ở trong! Prei Norkor vào thời bấy giờ, là một thôn nhỏ trong rừng già dựa kề một đồn kiên cố, dân cư thưa thớt, nhà cửa lèo tèo, cột cây nóc lá, tập trung trên các gò nổng cao ráo, chung quanh là ao sình nước đọng quanh năm, sâu vô trong nữa thì toàn là rừng rú thiên nhiên đã có từ tạo thiên lập địa, không ai khai phá, đầy rẫy muỗi mòng, đỉa vắt và thú dữ: tây, tượng, hùm beo, khỉ, sấu… Prei Norkor dùng làm nơi đồn trú của Phó Vương Cao Miên (một cái gai trong mắt Chánh Vương.) Việt Sử Trần Trọng Kim nói: “Năm Mậu Tuất (1658), vua nước Chân Lạp mất, chú cháu tranh nhau, sang cầu cứu bên chúa Nguyễn, chúa Nguyễn bấy giờ là chúa Hiền sai quan đem ba ngàn quân sang đánh ở Mỗi Xuy [5] (nay thuộc Phúc Chánh, Biên Hòa) bắt được vua là Nặc Ông Chân đem về giam ở Quảng Bình một độ, rồi tha cho về nước, bắt phải triều cống và phải bênh vực người An Nam sang làm ăn ở bên ấy. Năm Giáp Dần (1674), nước Chân Lạp có người Nặc Ông Đài đi cầu viện nước Xiêm La để đánh Nặc Ông Nộn. Nặc Ông Nộn bỏ chạy sang cầu cứu ở dinh Thái Khang (nay là Khánh Hòa). Chúa Hiền bèn sai cai cơ đạo Nha Trang là Nguyễn Dương Lâm cùng với Nguyễn Đình Phái làm tham mưu đem binh chia ra làm hai đạo sang đánh Nặc Ông Đài, phá được đồn Sài Gòn rồi tiến quân lên vây thành Nam Vang. Nặc Ông Đài phải bỏ thành chạy vào chết ở trong rừng. Nặc Ông Thu ra hàng. Nặc Ông Thu chính là dòng con trưởng nên lại lập làm chánh quốc vương đóng ở Long Úc, để Nặc Ông Nộn đóng ở Sài Gòn, bắt hàng năm phải triều cống. Năm Mậu Thìn (1688), Hoàng Tiến [6] giết Dương Ngạn Địch, rồi đem chúng đóng đồn ở Nam Khê, làm tàu, đúc súng để chống nhau với người Chân Lạp. Vua Chân Lạp là Nặc Ông Thu cũng đào hào đắp lũy làm kế cố thủ và bỏ không chịu thần phục chúa Nguyễn nữa. Bấy giờ chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Trăn sai quan đem quân [7] đi đánh dẹp, dùng mưu giết được Hoàng Tiến và bắt vua Chân Lạp [8] phải theo lệ triều cống [9]. Năm Mậu Dần (1698), chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Chu sai ông Nguyễn Hữu Kính [10] làm kinh lược đất Chân Lạp, chia đất Đông Phố (Giản Phố) ra làm dinh, làm huyện, lấy xứ Đồng Nai làm huyện Phúc Long và xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình [11] Đặt Trấn Biên dinh (tức Biên Hòa) và Phiên Trấn dinh (tức Gia Định) sai quan vào cai trị. Lại chiêu mộ những kẻ lưu dân từ Quảng Bình trở vào để lập ra thôn xã và khai khẩn ruộng đất. Còn những người Tàu ở đất Trấn Biên (Biên Hòa) thì lập làm xã Thanh Hà: những người ở đất Phiên Trấn (Gia Định) thì lập làm xã Minh Hương. Những người ấy đều thuộc về sổ bộ nước ta”. (Việt Nam Sử lược, Trần Trọng Kim, trương 329-330)

2. Từ năm 1753 đến năm 1780

2. Nối chân Phù Nam trên vùng Thủy Chân Lạp là người Cam Bốt

3. Theo dấu người Tàu, năm 1680 đến miền Nam, năm 1778 lập Đề Ngạn

4. Trở lại dấu vết tổ tiên Việt

[18] Về danh từ “Phù Nam “, có đến hai thuyết khác nhau: a – Trong sử Tàu, gọi đó là đất Phù Nam , tức xứ Nam nổi phù. Đời Thượng Cổ, vùng đất này có lẽ quanh năm ngập lụt, không ai thấy được: đất chỉ lồi lên khỏi mặt nước cho ngó thấy vào mùa hạn, khi nước rút đi hết và trời dứt mưa. b – Nhà lão thành, thông thái người Pháp, ông G.Coedès lại cắt nghĩa: “Phù Nam ” do tiếng Khmer “Phnom” đọc ra làm vậy. (Còn trong vòng cãi cọ, chưa thuyết nào ngã ngũ nhất định). c – Theo cố học giả người Pháp Pierre Dupont, thì xứ Phù Nam gồm đất Nam Kỳ cũ (Thủy Chân Lạp), đất Cao Miên (Lục Chân Lạp) và một phần xứ Xiêm La, và Phù Nam là một nước có từ thế kỷ thứ I đến thế kỷ thứ V sau Gia-tô. (BEFEO, năm 1959, tập II, trang 635). [19] Muốn biết rành rẽ, nên chờ xem bộ luận án thi Tiến sĩ của học giả Malleret, đăng trong tập kỷ yếu Trường Viễn Đông Bác cổ (Bulletin de l’Ecole Francaise d’Extrême-Orient) đang in. Theo tác giả, sẽ gồm bốn tập lớn. Hiện nay Viện Bảo Tàng Sài Gòn đã nhận tập thứ nhứt chia làm hai quyển nhan đề: “L’exploration archéologique et les fouilles d’Oc-Eo”, Paris 1959, Tome Premier, “Texte”, Tome Premier “Planches” (Sách tham cứu khảo cổ nói về cuộc đào tìm cổ tích tại Oc-Eo, tập nhứt chia ra một quyển về luận văn, một quyển về hình ảnh.) (Nay trọn bộ đã xuất bản rồi.) [20] Tôi xin sao lục ra đây đoạn Pháp Văn nói về điển này: “sur les origines de cette dénomination ghéographique, les hypotheses les plus ingénieuses ont eté avancéẹ Selon Pétrus Ky, qui prétend avoir découvert cette interprétation dans l’ouvrage de Trịnh Hoài Đức, les deux caracteres Saigon, signifieraientbois des ouatiers, contenant ainsi une allysion aux nombreux kapokiers qui se rencontraient, parait-il, autregois dans la région. Le Đốc-Phủ-Sứ Lê Văn Phát avait cru pouvoir pousser cette interprétation très loin, et en déduire que là Plaine des Tombeaux avait été jadis une forêt inépuisable. Comme dans le domaine des étymologies on n’en est guère à une hypothese, l’abile Đốc-Phủ n’avait pas manque de soliciter le sens des mots de desverses facons, afin d’en tirer une explica tion propre à satisfaire des exugenees de son esprit. Il en résultait que Sài Gòn pouvait être dérivé du nom cambodgien Prei Kor (a) qui signigie fores des chúng tôi pouvait être aussi l’adaptation des mots siamois Cai-ngon, c’est-àdire brousse des kapokiers, que les Laotiens emploient encore, affirmait-il, pour désigner la capitale de la Cochinchine (b). En réalité, l’ancienne ville cambodgienne, dont la tradition a conservé le souvenir, s’appelait Prei Nokor, désignation qúEtienne Aymonier traduit par les termes forêt royalẹ mais que le P. Tandart, dans son dictionnaire cambodgien-francais, propose de représenter par l’expression ville de la foret, en rapportant Norkor au mot pali nagaram qui équivaut à cité, ville ou forteresse”. a) Seule à notre conna issance, Adhémard Leclere, a mentionné le nom de Prei Kor qúil a identifié à Prei Nokkor dans le Sdach Kan , bulletin de la Société des Etudes Indochinoises, deuxieme semestre 1910, page 26. Prei Kor pourrait se traduire plutôt par Forêt des bouefs que par Forêt des Kapokiers. b) Note sur l’érymologie du nom de Saigon – extreme- Asie, octobre 1931. page 227-229. Dans une revue ephémere Tourisme, publiée à Saigon , diverese étymologies avaient été antéricurement proposées. ef N.16 (7 Aout 1925) [21] Srock biến ra tiếng Việt là “Sốc” tức xứ của người Miên ở. Về sau, “sốc” nghĩa là xứ, vùng. Tỷ dụ: Sốc thổ, sốc mọi, sốc việt (Sock yuong). Về danh từ “Yuong” hay “Yuônn” hoặc “duong”, chưa ai giải nghĩa nghe ổn thỏa. Có thuyết cho “duong” do tiếng Phạn trong “Yuong na” tức là người ngoại kiều. Cắt nghĩa làm vậy e thông thái quá, sợi tóc chẻ làm đôi, theo ý tôi phải chăng “duong” do tiếng chót danh từ “An nam quốc vương” của vua chúa ta dùng để xưng hô đời trước mà có. Người Khmer quen nói tiếng một, danh từ “An nam quốc vương” quá dài dòng bẻ miệng, bẻ môi, khó nói, nên họ dùng gọn chữ “vương” cũng đủ và “vương” biến lần “yuong” v.v… Có danh từ năm 1945-1946 người Miên dùng làm khẩu hiệu là “Cáp duồng”. “Cáp” là chém đầu, “Cáp duồng” là chém đầu thằng Việt!). [22] Trong tập “Souvenirs historiques” cụ Trương Vĩnh Ký quả quyết người Khmer xưa có trồng gòn chung quanh đồn Cây Mai và chính người còn trông thấy vài gốc cổ thụ này tại vùng ấy năm 1885. [23] Hồi đời Linh mục Bá Đa Lộc đã năng dùng danh từ “Sài Gòn” trong thư tín nhưng đến lối 1860 danh từ này mới phổ biến rộng và thống nhất.

Thật ra, khó mà tóm tắt trong vài câu ngắn gọn và đầy đủ về điển tích chung quanh thành và đất Sài Gòn. Muốn hiểu vấn đề này, phải chịu khó tìm dấu gót vua Gia Long trong những năm người bôn tẩu trong Nam , từ năm 1774, và theo dõi các vì vua chúa nhà Nguyễn đến năm khia chiến cùng binh Pháp là năm 1859. Phần này chia ra: 1. Thời đại Nguyễn Ánh (từ năm 1774 đến năm 1820). (Nguyễn Phúc Ánh xưng chúa từ 1774-1802, tức là vị hoàng đế lấy đế hiệu Gia Long từ 1802-1820). (Xem một đoạn tả về vài nét ăn thói ở dưới triều hai vua Gia Long và Minh Mạng lúc quan Tả quân còn làm Tổng trấn tại Gia Định); 2. Sau năm biến cố 1859; 3. Tây đến Tây đi (dứt trước năm ký hiệp định Genève 1954).

1. Sài Gòn dưới trào Nguyễn Ánh (1774-1820)

2. Sài Gòn dưới trào Minh Mạng (1820 – 1840)

Có cả thảy mấy vị trí mang tên “Sài Gòn” và tùy thời đại xoay hướng đổi chỗ như thế nào?

1. Prei Nokor,Sài Gòn của Cổ Cao Miên, trước năm 1680. 2. Đề Ngạn,nơi tụ tập của người Tàu, từ năm 1778. 3. Bến Nghé,nơi tụ tập của người Việt, từ năm 1790. * * * * * Đoạn này, theo tôi rất là quan trọng. Tôi xin mở một dấu ngoặc, vừa để ôn lại những tài liệu đã biết rồi, vừa để nhơn đó, nhận định và tìm hiểu vị trí Sài Gòn, đã tùy thời, đổi chỗ như thế nào. Có cả thảy ba vị trí đáng để chú ý nhứt:

1. Chỗ nào là “Cổ Sài Gòn” thành lũy mà người Cam Bốt gọi là “Prei Nokor”?

2. Sài Gòn, nơi tụ tập buôn bán của người Tàu

3. Sài Gòn của Việt

Thuở “đàng cựu” vùng Sài Gòn chánh danh gọi “Bến Nghé”. Đó mới là xóm Việt Nam . Bến Nghé, tên gọi “Ngưu Chử” tên khác nữa là Tân Bình Giang; xóm Bến Nghé chạy dài từ khu Chợ Quán tới Hiển Trung Tự (Pháp dịch “temple de la Fidélité”) và chạy đến Thủy xưởng (Arsenal). Miếu Hiển Trung do đức Cao Hoàng dựng lên để thờ các công thần khai cơ dựng nghiệp, trong có bài vị mấy trăm cái, gồm có một bài vị thờ người thủy binh Pháp Matelot Manuel, miễu Hiển Trung vốn ở trong thành Ô Ma (Camp des mares, có lúc là trụ sở trung ương Cảnh sát). Sau năm đảo chính 1945, binh Pháp trở lại chiếm cứ thành Ô Ma, và dỡ bỏ miếu Hiển Trung, về sau này không còn nhìn được xưa ở chỗ nào. Cả ba vùng: vùng Miên (Phú Lâm), vùng Tàu (Đề Ngạn) và vùng Việt (Bến Nghé) nối liền nhau nhờ rạch, kinh, sông ngòi nhiều hơn bằng đường lộ đất. Nay dân cư ngày một thêm đông, nhà cửa ngày một thêm nhiều, các đường thủy đạo bị lấp lần hồi, không dễ gì truy tầm ra manh mối. Cách nay một trăm năm xe cộ rất ít, đường sá không nhiều như bây giờ. Muốn xê dịch chỗ này qua chỗ nọ, đường xa dùng võng, cáng, sang nữa thì chạy ngựa thêm mau lẹ, nhưng vẫn tốn kém khổ cực (ngựa phải đúng giờ cho ăn cho nghỉ dưỡng sức) đã phiền phức lại nhiều bất tiện. Đường gần, gọn nhứt và rẻ tiền là đi thuyền, ghe lồng, ghe giàn, tam bản bốn chèo hoặc hai chèo, bình dân hơn nữa là chiếc xuồng ba lá (chỉ ba tấm ván ghép lại). Khắp Sài Gòn (Bến Nghé) và Đề Ngạn (Chợ Lớn), lối 1860, có rất nhiều con kinh đào tay, tuy bẩn thỉu nhưng thuở đó rất cần ích. Về sau, lần lần các kinh bị lấp mất dạng hình, nhường chỗ cho Sài Gòn tân thời, xứng danh hòn “Bửu ngọc Viễn Đông” (La Perle de l’Extrême Orient). Trong thành nội, xin kể đại lược những cơ quan sau này: a. Hành chánh: – Dinh Ông Thượng, vùng cao ráo. – Trường Thi. – Trường tiền (chỗ đúc tiền). – Hoàng cung. – Pháp trường. b. Quân sự: – Cơ xưởng, vùng phụ cận. – Thủy trại (arsenal). – Trường Diêm (kho đạn, có phải là dinh Tân Xá cũ chăng?). – Cơ dinh. – Mô súng (đồng Tập trận). – Khu lương thực (Cầu Kho). c. Phố xá: nhà cửa dân cư ở vùng thấp có các rạch con nối liền nhau. d. Phía xa vô lần trong Chợ Lớn: Phố Hoa kiều (trong bản đồ Pháp đề “Bazar chinois”), có phải Đề Ngạn đây chăng? Theo cuốn “Annuaire de la Cochinchine” in năm 1865, hồi Tây mới qua, vùng Sài Gòn đếm được bốn chục làng ở dài theo sông Bến Nghé và chung quanh Quy Thành [43]. Trong bài khảo cứu của cụ Trương Vĩnh Ký “Souvenirs historiques”, cụ thể đại lược chung quanh Sài Gòn xưa có những làng như Hoa Mỹ, Tân Khai, Long Điền, Mỹ Hội, Nam Chơn, Long Hưng, Cầu Kho, Chợ Quán, Tân Kiểng, An Bình, Hòa Nghĩa, (Trường Thi) v.v… Nay ta thử dạo một vòng thành phố Sài Gòn xưa, lối sinh thời cụ Trương Vĩnh Ký, và bắt đầu từ cơ xưởng thủy quân kể lần hồi vô trong Chợ Lớn, thì: Từ mé Rạch Thị Nghè (Avlanche) tên chữ “Bình Trị Giang” kể lần hồi vô kinh Bến Nghé (Arroyo chinois), tên chữ “Ngưu Chử hay Tân Bình Giang”, có cả thảy bốn ấp: 1) – Xóm Hòa Mỹ, tức xóm Thủy trại (Arsenal). 2) – Xóm Tân Khai. 3) – Xóm Long Điền. 4) – Xóm Trường Hòa, giáp với đường Công Lý (NKKN). Thành phố Sài Gòn thuộc vùng đất thôn Mỹ Hội, bắt từ mé kinh cây Cám chạy đụng ranh làng Tân Khai. Tân Khai, tục danh là Chợ Sỏi, hoặc Vàm Bến Nghé, ranh đất ăn giáp đường Trường Tiền (đường mé sông lối Cầu Mống). Hồi đàng cựu, đường mé sông nhà cửa đông đúc lớp trên bờ, lớp dưới mé nước, chạy dài chen khúc khít nhau. Khúc sông Bến Nghé ngay lối rạch Ông Bé sấp vô trong Chợ Lớn, có xóm tên gọi “Lò Vôi”. Đời xưa, ông xã trưởng làng Mỹ Hội, nhờ trong vùng đất có xây thành trì, cũng như ngày nay chức đô trưởng (1960), nên oai vệ không xã trưởng nào bì kịp. Xã trưởng làng Mỹ Hội, chức tuy nhỏ nhưng đặc cách ngang hàng Cai tổng đương thời ấy, và được đặc ân đội mão trái bí (Souvenirs historiques). Mỗi khi làng Mỹ Hội chạy sớ xin xây cất đình chùa hoặc làm lại hay tu bổ công sở, khi sớ tâu đến kinh, bận về vua phái một khâm sai đại thần mang vào năm quan tiền kẽm và vài món tặng phẩm khác đựng trên một mâm sơn son thếp vàng “vật khinh hình trọng” “ơn vua lộc nước”, bấy nhiêu đó đủ phình mũi dân đen!

Đông đảo thay phường Mỹ Hội, Sum nghiêm bấy làng Tân Khai. Ngói liễn đuôi lân, phố thương khánh tòa ngang tòa dọc. Hiên sè cácnh én, nhà quan dân hàng vắn hàng dài. Gái nha nhuốc tay vòng tay niểng, Trai xênh xang chơn hớn chơn hài…

(Cổ Gia Định vịnh, tương truyền do ông Ngô Nhơn Tịnh soạn, bản in Trương Vĩnh Ký, 1882, trang 5). Xóm Hàng Đinh (bán đinh) ở lối vườn chơi trên con đường Tự Do, đường này đã có từ thuở cựu trào, nhưng nhỏ bé và quê mùa lắm. Từ mé sông đến dinh Thượng thơ (Direction de l’Intérieur) có mấy chòm cây cau suôn đuột chen chúc gần xóm nhà lá lụp sụp; lối năm 1860, gần đường Nguyễn Văn Thinh (d’Ormay cũ) người ta còn thấy một ngôi chùa cổ, mái uốn cong quớt như cặp sừng, cạnh bên có một quán rượu tây của bọn lính Pháp, ban ngày che màn trắng phếu. Trước Tòa Đô chánh hiện nay (1960) thì thuở ấy có con kinh nhỏ, trên có xây một cái cống, gọi “Cống Cầu Dầu” vì tại xóm chuyên môn bán dầu phộng để ăn và để thắp đèn. Con kinh này, Tây đến thì lấp đi, thay vào con đường Charner cũ, hồi đó cũng gọi là “Đường Kinh Lấp”. Ngã tư Kinh Lấp đụng với con kinh về sau biến thành Đại lộ Bonard (nay là Lê Lợi) hồi mồ ma thời Pháp, vẫn là xóm sang trọng nhất. Tại chỗ bồn nước ngay ngã tư này, hồi đó có xây một cái bệ cao hình bát giác, vào khoảng 1920 tôi lên học Sài Gòn còn thấy tận mắt. Mỗi chiều thứ bảy, tại bệ này có mấy chú lính san đá trỗi nhạc Tây cho đồng bào ta thưởng thức. Ngày nay, nhạc Pháp, nhạc Mỹ nghe nhàm tai, các rạp chớp bóng, máy hát và máy radiô “dọn ăn” đến chán bứ ê chề, chớ thuở ấy, làm gì mà được nghe nhạc ngoại quốc cho đã con ráy. Họa chăng tụi nào dám lết lại gần nhà hàng “Continental” dành cho “khách Tây” ăn (đường Đồng Khởi), nhà hàng Pancrazi trên đường Bonard (Lê Lợi), và chỗ ngã tư Bồn Kèn này mới được thưởng thức. Tương truyền ông Huỳnh Mẫn Đạt đã gặp ông Tôn Thọ Tường và hai đàng đối đáp nhau bằng hai bài thơ bất hủ cũng tại chỗ này tục danh “Bồn Kèn”. Ông Huỳnh Mẫn Đạt, là người Rạch Giá, thi đỗ cử nhân, làm quan trào Tự Đức, chức đến tuần phủ thì xin hưu trí vì không khứng ở lại giúp Pháp. Một buổi chiều kia, ông lên Sài Gòn chơi, ông đội nón ngựa – thứ nón như nón lá nhưng kết bằng lông chim, dùng khi cưỡi ngựa – ông đứng coi lính Lang sa thổi kèn, xảy gặp ông Tôn Thọ Tường ngồi xe song mã chạy trờ tới, ông lật đật núp gốc cây không cho ông Tường thấy nhưng ông Tường đã lanh mắt nhảy xuống xe mừng rỡ. Hai người ứng khẩu như vầy: Huỳnh Mẫn Đạt xướng:

Tôn Thọ Tường biết ý, ngâm trả lại một bài thơ như sau:

Tài liệu theo “Điếu Cổ hạ kim” Nguyễn Liên Phong soạn, bản 1925, trang 40-41 “Bồn Kèn” cũng còn là một danh từ để gọi bọn du côn ở xóm này, phần nhiều là tay dọn bàn, nấu ăn cho các quan Lang sa, thường hay cậy thế thần của chủ, hống hách hung hăng, tự xưng là “Anh chị Bồn Kèn” và hay gây ăn thua đánh lộn hoặc đâm chém với du côn xóm khác như “Xóm Dọn Bàn” (Paul Bert cũ), “Xóm Khánh Hội” (Anh chị Bến Tàu), hoặc du côn “Mặt Má Hồng”(đường Mac Mahon) hay “Lăng Xi Bê”(đường Blanscubé). Thuở ấy dân anh chị chưa có “chó lửa”(súng lục, súng sáu) như bây giờ. Họ nói chuyện với nhau chỉ bằng tay sắt, củ chì, roi gân bò, hoặc dao tu, miễn là đủ ăn thẹo trên mặt là cùng… nhưng họ có thói ưa xăm mình và tâng bốc nhau bằng danh từ “đại ca” như trong truyện “Thủy Hử” hay trong các truyện Tàu khác. Có người xăm tích “Võ Tòng đả hổ”, người xăm câu thơ răn đời: “Hoạn nạn bất ly chơn quân tử, Lâm nguy bất cứu mạc yêng hùng”. Có kẻ xăm bùa chú, bùa “gồng”, người xăm hình ý trung nhơn hoặc con “đầm” lõa thể, thậm chí có người vào khám đền tội hung hăng, khi ra đem về kỷ niệm một vài câu chữ Pháp như: “La richesse attire les amis” xăm trên vế hữu. “La paivreté les éloigne” xăm trên vế tả (định chừng anh chàng này đã bị một vế bạn bè phũ phàng chi đây). Có một anh, tôi được gặp, xăm khắp thân thể không chừa một da non: hai bắp tay những câu chữ nho:

Bắp non mà nướng lửa lò, Đố ai ve được con đò Thủ Thiê m!

(Kim Gia Định phong cảnh vịnh, bản in Trương Vĩnh Ký, trang 7). Trên chót ngọn cờ thường thấy treo ám ngữ, ban ngày là cờ vải, cờ màu, hoặc một quả bóng sơn đen, ban đêm thì treo một ánh đèn, khi trắng khi đỏ, tức là ám hiệu báo tin cho tàu bè biết hiệu lịnh tránh lổ rạn hiểm nguy, ghe thuyền qua lại, trong lúc vô ra sông Sài Gòn. Nghĩ cho hồi đời xưa, lúc chưa có xe ô tô lộng lẫy thì đi đó đi đây toàn là “cuốc bộ”, sang lắm mới được xe kiếng, xe song mã v.v… Bởi các cớ ấy nên khúc đường từ “Dinh Thượng thơ” đổ qua “Dinh Phó soái” rồi ăn xuống tới “Cột cờ Thủ Ngữ” đã kể cho là xa mút tí tè. Ngày nay còn lại câu hát và tích sau đây: Tiền nhựt, hồi trước có một cặp vợ chồng chắp nối, vợ là tay “dọn bàn” tứ chiếng làm cho Tây, chồng là tụi “nấu ăn” “ba rọi” của Pháp – hai người đụng nhau chung lưng làm nghề bán đồ lâm vố (do Pháp ngữ “rabiot” tức đồ dư; xưa Thống chế Joffre ưa dùng danh từ này nhứt). Ngày ngày đôi vợ chồng thay phiên nhau gánh gồng và đêm đêm mặc dầu mưa gió, anh và chị cũng phải quảy trên vai gánh “đồ Tây” bán như vậy từ đầu đường Tự Do ngang dinh Thượng thơ (Catinat) cho đến tận mé sông chỗ cột cờ Thủ Ngữ (Pointe des Blanguers) đợi khi nào nồi, soong sạch bách thức ăn mới đề huề cùng nhau gánh gánh không về nghỉ. Dè đâu, cuộc làm ăn vừa khá thì anh chồng biến chứng sanh sứa chuyện nọ kia, mèo mỡ bê tha, bỏ gánh lại một mình chị vợ đảm đương, cui cút. Tức quá, chị nghĩ ra câu hát như vầy để tỏ tình:

[38] Le nom de Chợ Quán, appliqué aux villages de Tân Kiểng, Nhơn giang, Bình Yên, était celui du marché qui se trouvait sous les grands tamariniers de l’avenue de l’hôpital de Chợ Quán. Il y avait beaucop d’auberges, de la le nom de Chợ (marché) quán (auberge). Entre l’avenue de l’hôpital et la ferme des Mares était le village de fondeurs. Nhơn Ngãi (aujuord’hui Nhơn Giang). On y remarque les vestiges dun ancien village cambodgien. Une grande pagode cambodgienne avec des tours en brisques, se trouvait sur une propriété. En y creusant on trouve des brisques cambodgiennes, des nénuphars en terre cuite, de petits bouddhas en bronzee, en pierre . Il y reste encore deux blocs de granit bien poli et ornés de sculptures en relief.(Ces pierres se trouvent actuellement au Musée National du Viet Nam (Jardin Botanique) Saigon NDLR De Chợ Quán (Nhơn Giang) jusqu à la route qui descend à Cầu Kho, ce bord était habité et parsemé de maisons entoutees de jardins. (Souvenirs historiques de Saigon et de ses environs, par Trương Vĩnh Ký, 1885, page 28). [39] Cao Man Kiều: Ở Bình Dương, năm Tân Hợi quốc sơ – 1731 – vua nước Cao Man là Nặc Tha bị Nặc Sô đánh đuổi chạy qua Gia Định ở nương cậy chỗ đất khoáng đãng nơi thượng du con sông, mà chỗ ở lại cách sông, phải làm cầu ván qua lại, nên gọi là cầu Cao Man, trích từ Đại Nam nhất thống chí, tập 2, bản dịch Nguyễn Tạo, trang 77. [40] Miên gọi “Kompong Krebei” – krompong là vùng, krebei là trâu, nghé – Việt có danh từ “Ngưu Chử” nôm na là “Bến Nghé” hay là dịch lại của người Miên chăng?. [41] danh từ “lâm vồ” tôi chỉ nghe phổ hóa ở vùng Sóc Trăng, Bạc Liêu, Trà Vinh tức những xứ có người Miên ở. Theo tôi, “lâm vồ” do chữ “đơn pô” của người Miên mà có. Cây ficus indica, figuier d’Inde, Banian trong từ điển Génibret chắc “bồ đề”, cây “da”, cây “lâm vồ” là phải? Người Miên họ nói thà sát nhơn còn hơn “hạ lâm vồ” vì sát nhơn chỉ giết người còn “hạ lâm vồ” là phá nơi Phật dựa. [42] Đường Trần Hưng Đạo, lúc dự thảo thì định phải chạy ngay từ trước nhà “Quốc Hội” – nay là nhà hát thành phố – thẳng một mạch vô Chợ Lớn, đi ngang chợ Bến Thành, thẳng bon một đường, như vậy mới đúng luật thẩm mỹ, nhưng khi bắt tay vào việc thì “đụng chạm phong thủy, mồ mả nhiều vọng tộc”, nên đành sửa lại uốn vẹo từ chợ Bến Thành, vẻ mỹ quan bớt đi một vài. [43] Bouchot – La naissance et les premières années de Saigon, ville francaise ( B.S.E. I. 1922. No 2 page 73 và B.S.E.I. Octobre 1935, page 84) [44] người Miên xưa gọi vùng này là “kongpongluong” tức “bến vua”. Sách sử Việt đã âm từ này ra “lâm phong long” trong tấu sớ. Về sau, đặt “Huyền Tân Long” đất Sài Gòn, theo tôi ắt cũng dễ khêu gợi ít nhiều danh từ Miên “kompongluong” vậy – VHS. [45] Theo bà Hilda Arnold, lại có một hành cung ở chỗ Sở Thương Chánh hiện nay, vào đời Chúa Nguyễn. Năm 1865, Pháp lập nơi đó nhà chi nhánh Bưu Điện, khúc đầu đường de la Somme, lối năm 1947 – 1948, tôi còn đến đây lãnh bưu kiện. (Còn nhà Bưu điện chánh, xưa xây từ năm 1886, đến năm 1891 mới hoàn thành). [46] Arsenal có từ năm 1864. Nhà của viên giám đốc sở Ba Son, góc đường Cường Để Nguyễn Du. Dinh này xây từ năm 1877. [47] một thuyết khác, theo ông Trần Văn Hương, thì “Répatation” biến thành “Ba Son” cũng như danh từ “Bồ Rô” do chữ “pelouse” mà ra. Tôi xin chép cả ra đây, mặc cho các bạn tự do lựa chọn. [48] Dinh Gia Long hiện nay. Trước lấy kiểu theo viện triển lãm hội họa thành Munich (pinacothèque de Munich ) vì định xây xong sẽ lấy đó làm viện trưng bày những kinh tế phẩm trong xứ (musée de économique). Nhưng khi xây cất rồi thì viên thống đốc choán ở, cho đến nay viện bảo tàng kinh tế phẩm chưa có chỗ xứng đáng để dọn. Dinh Gia Long, xây từ năm 1885 đến năm 1890 mới hoàn thành. Lối năm 1941-42, viên Thống đốc Hoeffel phá bỏ mặt tiền dinh nầy và mặt tiền Nhà Hát Đô Thành, thay bộ diện theo kiểu mới như ta thấy ngày nay… [49] Câu trên có khi nghe hát: “Thượng thơ bán giấy” – tức bán giấy tín chỉ dân mua đặng lập tờ ly hôn; Thủ Ngữ treo cờ – treo cờ ám hiệu; Mũ ni đánh đạo v.v… Theo tôi, câu này không thiết thực bằng câu trên – VHS. [50] Ông Nguyễn Liên Phong, một thi sĩ thời ấy, đã ghi lại mấy câu như sau:

Dám xin hỏi nội quân tử nhất là Đông Hồ lão huynh dạy cho tôi biết còn bản nào khác nữa chăng và bản nào đúng chính nguyên văn của Tôn Thọ Tường? [73] Trong vài sách Pháp họ viết “Tả quân” là “le Ta kun”. [74] Theo “Monographie de la province de Gia Dinh” thì năm 1833, lúc đánh với giặc Khôi, ông Trương Minh Giảng ra lệnh đốt cầu Cao Miên. [75] Gọi làm vậy vì đây là “hoa viên Lê Tả quân”.

[76] Huỳnh Công Lý, sanh tiền cậy thế “quốc trượng” làm nhiều điều ngang ngược, chết bị xử trảm. Còn lại nấm mồ, công vua xây, tưởng đâu êm ấm, ngờ đâu mấy chục năm trước, chính mắt tôi trông thấy người trong xóm lên án bằng cách phóng uế, xú khí bốc lên đêm ngày, kịp khi mở đường Cao Thắng, lưỡi cuốc vô tình lật nắm xương lên, dời qua quách nhỏ vùi một nơi nào nay không biết được, thảm làm sao! Chẳng qua tại lòng Trời, tự mình muốn khói hương tồn tại như ai nào được. [77] Gia Khánh Hoàng đế của Mãn Thanh, trị vì xứ Trung Hoa từ năm 1796 đên năm 1820. Người chết đem theo quạt “Gia Khánh”, lấy đó mà suy cứu định cho những năm này, còn chưa ngã ngũ, niên hiệu “Gia Long” chưa được nhìn nhận chính thức. Mà nếu vậy tại sao không dùng niên hiệu “Cảnh Hưng” đời Lê, khó hiểu vậy thay? [78] về sau nhờ khéo điều đình, hội Phú Trung mua lại phần đất có ngôi mộ và đền thờ, diện tích 709 m 2 , (tờ đoạn mãi lập ngày 26/9/1953, Me Bérenger) [79] Đi xích phê: đi thơ thới, khoan thai (Đại Nam Quốc Âm tự vị). [80] Tòa nhà làm Procure cất trên dinh Tả Quân, và xây từ năm 1869 đến năm 1877 mới xong.

Đây phải đâu chỉ có bọn dọn bàn làm bá chủ tại Sài Gòn thưở giao thời, khi Tây mới qua. Tiếp theo còn những giới đặc sắc nhứt – (xin xem Thơ Nam Kỳ và Thơ Nam Kỳ tiếp, bản in Nhà Dòng Tân Định năm 1903).

1/ – Đây là bọn hầu cận các quan Tây Nực nồng những kẻ hoài thinh! Tiếng Tây không biết, tưởng vinh trong đời, Áo vân quần nhiễu dạo chơi, Đồi mồi lược diễu, giắt phơi trên đầu, Xa Tào (?) Soái phủ ở đâu, Vườn hoang múa gậy, người hầu cậu quan… (Thơ Nam Kỳ, trương 15) Áo quần bằng vân nho xuyến nhiễu, toàn những thứ đắt tiền, phải hạng ăn to xài lớn mới dám dùng. Lược giắt đầu tóc làm bằng vảy đồi mồi có diễu vàng là trang sức cực kỳ sang trọng thưở xưa, đến năm 1915 còn thấy dùng, nay đào mả cổ còn gặp. Xa Tàođây chắc là xa giá hầu Tào Tháo (tiếng nói điệu hát bội). Hoài thinh. Có phải chăng: “Hoài” là mang, “thinh” là thanh danh; hoài thinh là “mang danh”?

2/ – Và đây là mấy thầy thông ngôn ký lục Các ông tham biện đương đàng, Tiếng Nam người biết, điếm đàng khó qua; Ông nào chẳng biết tiếng ta, Ở ngoa ủ bổ, nói ra nói vào, Quê mùa làng xóm chú nào, Tới dinh hầu việc đã nao hết hồn. Nên hư nhờ tiếng thông ngôn, Đưa lên cũng phải, lấp chôn bao nài. (cùng trương 15) Lúc ban sơ, trong Nam Kỳ, Tây đào tạo người giúp việc bằng cách tuyển lựa học trò lớp nhứt các trường tỉnh, đem về Sài Gòn dạy dỗ tại trường d’Adran (chỗ trường Taberd bây giờ). Sinh viên được ăn ở tại trường, thêm lãnh phụ cấp mỗi tháng và xà bông giặt đồ, giày, y phục kiểu Tây mỗi năm mấy bộ: o bế như vậy, mà lúc đầu ít người dám xin học vì còn sợ triều đình ta trở lại nắm chánh quyền. Một cậu con nhà giàu tỉnh Gia Định, mướn người đi học thế cho mình, sau nầy cậu trở nên “tên bán quán cơm tại cầu tàu Sốc Trăng”, còn anh học trò khó chễm chệ là ông chủ quận châu thành, Đốc phủ sứ. Sinh viên trường d’Adran thi ra trường, ai đậu số cao được tự ý lựa: nếu ham ăn lương lớn (sáu đồng bạc con Ó) (piastres en argent décorées de l’Aigle Mexicain) thì bổ làm thầy giáo dạy học, bằng như ham làm thông ngôn (tuy lương kém hơn, có bốn đồng bạc con Ó, nhưng còn trông cậy nơi tiền cửa sau, tiền “lì xì” và lễ lộc bưng mâm), còn lại những người không đậu nhưng hạnh kiểm tốt thì đều được thâu dụng vào các sở mới tạo lập: trường tiền, nhà dây thép, sở họa đồ, v.v…) Xưa thầy “thông ngôn” oai lắm: chức làm “interprète” khi “đứng bàn ông Chánh” (thông dịch viên của Tham biện chủ tỉnh) thét ra khói, khi “khi đứng bàn ông Phó”, làm tay sai và thông dịch viên cho Phó tham biện, hét ra lửa, ngày sau thầy thông ngôn đủ năm làm việc được thì một kỳ nữa rồi được bổ làm Huyện lên Phủ, rồi Đốc phủ sứ, làm chủ quận, đại diện cho quan Pháp trong một vùng, “oai như giặc”, “oai thấu trời”, “oai hơn ông ghẹ”! Vì kiêng nể nên dân tặng vợ các vị ấy chức “cô thông”, “cô huyện”. Chức ký lục ban sơ gọi làm vậy, nhưng sau đổi lại là “thơ ký” tức “secrétaire”. Lúc đầu thơ ký chuyển trong hàng học trò lớp nhứt, chưa đỗ đạt, không cấp bằng, nhưng học lực khá, viết chữ thật đẹp và ít lỗi lầm. Vì kém vế hơn thông ngôn, nên dân ban chức “thím ký S.” hoặc “thím S.” cho bà vợ, đồng một hạng với mấy thím vợ các chủ tiệm Tàu trong Chợ Lớn. Đến khi chức thông ngôn đặc biệt chỉ dùng để gọi các thông dịch viên bên Toà Án (interprète des tribunaux), các thầy thông bên Toà Bố đều liệt vào sổ “secrétaire” (thơ ký), nhưng phân biệt ra “thơ ký chánh ngạch, ngạch soái phủ” (secrétaire du Gouvernement), lãnh lương quản hạt và “thơ ký địa hạt” (thầy ký tỉnh, lãnh lương làng) (secrétaire régional). Khi ấy, các thím vận động và đồng hè lên chức “cô ký” rắp rắp! Dân đời trước, đi hầu quan Tây, bên Tòa Án thì chưa có trạng sư, bên Tòa Bố ít có tham biện sành sỏi tiếng Việt, và mỗi mỗi đều trông cậy nơi thầy thông ngôn, cho nên dân sợ “thầy” hơn sợ “ông râu ria”! Thông ngôn tiếng mất tiếng còn, lợi hại vô cùng. Có lễ vật thì việc vạy hóa ngay, không lễ không tiền thì dân thấy thua kiện trước mắt. Có khi vì bất tài, mấy thầy thông ngôn đời trước giết người không cần dao bén. Câu tòa hỏi: “Demandez au condamné s’il préfère les travaux forcésou la peine de mort?” Dịch không suy nghĩ câu ấy hoá ra: “Tòa hỏi anh muốn Tòa kêu án khổ sai rồi chết chém hay không?” vì thầy nghe lầm “…et la peine de mort”.Ở ngoa ủ bổ – Tôi không hiểu trọn câu. Duy biết “ủ” là “hữu”, “bổ” là “vô” (tiếng Tiều). Còn “ở ngoa” có phải “au revoir” chăng?

3/ – Và đây là các “vợ Tây”, “me Tây” thời ấy Lâm cơn nhờ có “Chị Hai” Đưa vào liệu việc, bẩm ngài mới an Xem qua chẳng có, hứ ngang (vì chẳng có tiền kèm theo) [81] Làm lơ chẳng bẩm cho làng làm ơn Đáng vì thúc bá làm cơn Mầy tao, quát nạt, quăng đơn vội vàng. (chương 15) (Nhơn tâm đời nào cũng vậy).

4/ – Còn đây là về mấy chú dọn bàn đã kể trên Đáng thương mấy chú dọn bàn, Nhiễu điều, giày vớ, xinh xang với đời, Đứa nghèo bắt chước làm hơi, Tuy người quân tử sánh chơi không bằng. Ra vào làm bộ hung hăng, Xét ra mới biết là thằng dọn cơm! Kìa bầy thúi địt còn thơm!!! (trương 15-16)

5/ – Đây là bọn gái buôn hương bán phấn thời ấy Một đêm chẳng biết mấy chồng, Chà Và, Ma Ní cũng đồng “lội” qua! Ngày thì hớn hở vào ra, Ai ra xem thấy: Chị Ba ngoắt vào. Đẹp lòng tạm bạn liễu đào, Cửa quyền thong thả chú nào bẩm thưa. Coi ai thất thế thơ mơ, Thấy không cung kính vào thưa vội vàng: Để tao nói với ông quan, May ra kẻ nghịch, khám đàng chung thân, Ai mà chẳng nghĩ thiệt hơn, Muốn chi đặng nấy, chẳng đơn từ gì! (trương 17) (Hạng gái nầy đời nay vãn còn)

6/ – Lại đây là bọn hạ cấp khiêng gánh xách đồ cho bà đầm, cho ông sơn đá, hay ông đầu bếp được Tây cưng, tục danh “ba nhe” = panier “ban bù” = bambou Khiến nên con đĩ phải vì, Ba nhe lũ ấy có gì lung lăng, Theo Tây đội thúng mua ăn, Trả nhiều bớt ít, chưởi ngang không vì; (trương 17)

7/ – Thêm bọn lính gọi “lính tập” thời ấy (tirailleur) Nhiều bề khó nói long đong, Ở gần lính tập hết trông ăn làm, Đi đâu có lũ có đoàn, Rượt gà, bắt vịt, phá hoang bí bầu, Bán buôn chúng đã lắc đầu, Mười tiền trả bảy, ai hầu dám kêu! (trương 17)

8/ – Sau rốt là lính ma tà, ma ní, và mà tà tét [82] Đời ôi nhiều nỗi bợn nhơ; Ma tà có chú hay quơ hay quào, Giận ai gươm súng phao vào, Báo quan nhà nghịch, vây rào xét coi. Quan bèn tưởng thật dấu noi, Phú sai đi bắt xét lòi súng ra. Đặng tang rồi mặc ý ra, Quơ đồ ráo cạo đoạn già dẫn đi… (trương 18) Nhân vật tuy đổi chớ nhơn tâm ấy vẫn còn, cổ kim không khác mấy. Đoạn già… Đoạn= rồi thì; Già = gông. Đoạn già dẫn đi nghĩa là: rồi thì đóng gông dẫn đi. * * * * * Cái “mốt” ăn mặc hồi Tây mới qua cho đến trận Âu Châu đại chiến 1914-1918 thì: thầy thông thầy ký, những người còn thủ cựu, gọi “phe theo Nho”, thì áo dài xuyến đen, khăn đóng “Suối đờn”, giày Hạ Châu đế lót lông ngựa, gọi theo Quảng Đông là “giày mạ mị” (mã vĩ), hoặc giày “hàm ếch thêu cườm chữ ngẫu” đặt tại Gò Công. Mấy thầy tân tiến gọi “phe theo Tây”, thì bận áo bố trắng cổ đứng, nút tra chuỗi hổ phách [83], đầu đội nón “casque Secrétaire” của hiệu Paul Canavaggio sản xuất, là bảnh tẻn nhứt hạng rồi, chân đi thêm giày “ăn phón” (en France), tay xách dù lục soạn đen, cán sừng trâu, thì lại “bảnh quà xa quá xá”. Khi nào được chụp hình đứng bên Quan lớn Chánh thì cổ thắt “cà ra oách” (cravate), diện áo “u hoe” (veston ouvert), tay lo le điếu xì gà tàn, thì duy có mấy cô mấy ỷ đời ấy biết cho [84]. Các tay dọn bàn, nấu bếp hầu cận “Ông To” thì nịt dây nịt nỉ chống một gang tay, tám nút đen phơi trước bụng, quần lục soạn trắng không vận, thời ấy chưa có dây lưng rút, lưng quần xổ ra kéo phủ lên dây nịt, gọi “vận quần theo kiểu quần bàn”, đó là tay tổ, khuyên ai đừng ngó lâu mà ăn thoi bất tử. Nấu bếp, dọn bàn thì đầu chít khăn nhiễu trắng, giắt lược đồi mồi, còn như mấy ông mấy thầy tự ví như bậc nho sĩ, thì chít khăn thanh (lụa xanh), chớ cũng không ai dám vượt bực chít khăn nhiễu điều, trừ phi mấy ông già bà cả gần xuống lỗ thì dùng khăn đỏ mà vẫn được châm chế, không ai nói gì. Các ỷ, các ý [85] trong Chợ Lớn thì đầu bới tóc thả bánh lái “ba vòng một ngọn”, ăn trầu tích toát, để móng tay dài và mỗi lần xỉa thuốc thường vảnh ngón tay cho người ngoài thấy mình có cà rá hột xoàn bự hay bộ nhẫn vàng quấn kiểu “cửu khúc liên hườn”. Trên vai mấy ỷ thường giắt vào một khăn vằn Nam Vang dùng để lau trầu, khác với mấy cô vợ Tây thì quấn chuỗi hột vàng gần gãy cổ, tay đeo kiềng vàng kiểu “nhứt thi nhứt họa” thêm mặc áo mớ ba mớ bảy, tóc xức dầu thơm chánh hiệu “Cô Ba”. Thú phong lưu thuở ấy là chiều chiều ngồi xe song mã đánh một vòng “Lăng Tô” (Láng Thọ nói giọng Tây), hoặc ngồi xe kéo bánh cao su đặc, ra bến tàu hóng mát. Nếu không bài bạc thì xem hát bội. Vả lại kép hát chầu đó cũng là một nhơn vật đáng kể, nhờ mấy ỷ, mấy thím bao bọc nên không thua người thợ bạc có tiếng là dám ăn dám xài, không kém mấy chú dọn bàn đầu bếp ông Tây. Miệng thế gian ăn mắm ăn muối mà độc địa, đã ghi hạng tầng lớp xã hội như sau:

Nhưng kết duyên cùng dân thầy là để cầu sang, sao bì:

Trong tập thi thọai kể trên, Phan Khôi tiên sinh nói rõ rằng bài thơ này là tác giả làm ra cốt ý để chỉ trích ông Nguyễn Duy Hiệu khởi binh Cần Vương ở Quảng Nam, nhưng ông thường “ỷ chức quan mà lung lạc bạn đồng sự”. Biết Tú Quỳ thì ắt Phan Khôi (Chương Dân) biết rõ hơn tôi rồi, việc ấy khỏi phải nói. Việc đáng nói là trong bài thơ “Kép Hát Bội”, tôi nhận kỹ rất có thể Tú Quỳ mượn cớ trách mát ông bạn Nguyễn Duy Hiệu, nghĩa hiệp có thừa, nhưng còn kém đức độ, quân tử, luôn thể Tú Quỳ lấy cớ vịnh kép hát mà móc lò bọn quan “nhảy dù” thưở ấy, thơ làm được như vậy mới đắc thể cho! Câu nào câu nấy ăn sát đề tài “Kép Hát Bội”, nhưng kỳ trung người bàng quan hiểu ngầm biết Tú Quỳ muốn nói ai nữa kìa. Nào! Nhỏ ăn học không ra gì, lớn theo Tây tà rồi Tây phong chức cũng “ông kia ông nọ”. Những buổi tiệc tùng đình đám thì ngồi vếch đốc trên ba anh hương chức quèn, sướng thật, nhưng sao bì khi chầu hầu các ông bụng bự, khúm núm dưới bệ khó coi làm sao! Đành rằng “ông kia nọ” là bề ngoài, chớ bề trong khó che đậy cái dốt của chú điếm đàng vẫn phơi rành rành trước mắt mọi người. Hỏi thử con nít lên ba nó cũng biết bao nhiêu đó là Tú Quỳ mô tả hình dạng bọn “nhảy dù” chứ gì. Câu “Đã từng trợn mắt lại phùng mang” mới là chưởi thiên hạ! Sướng con ráy quá! * * * * * Trong các nhơn vật sớm ra đời, cúc cung làm quan cho Pháp, đáng kể là: Tôn Thọ Tường, Cai tổng Du, Lãnh binh Huỳnh Công Tấn, tri phủ Trần Bá Lộc, tri phủ Nguyễn Trung Trực, tri huyện Đỗ Hữu Phương, thống ngôn Joannès Liễu, Paul Lương và Loan (theo ông Khuông Việt, “Tôn Thọ Tường”, trương 60). Đời ông Tôn Thọ Tường và tâm sự của Tôn, nhà văn Khuông Việt đã viết thành sách. Những ông kia cũng thời thế đẩy đưa, thêm nói ra e “bứt dây động rừng”. Tôi chỉ ghi lại đây những nhơn vật “nảy lửa”, nhưng tạm giấu tên…

1/ – Ông thứ nhứt xuất thân “đội” rồi thăng tri huyện, tri phủ, rồi lại về hưu “hàm Tổng Đốc”. Mộ ông nay ở tỉnh Mỹ Tho, ai đi tàu gần tới xứ sản xuất cam ngon là thấy sừng sững trước đầu doi ngay khúc ngã ba sông hùng dũng. Ông là người giữ đạo Thiên Chúa, vì căm thù vua Tự Đức bắt đạo, nên sớm ra giúp Pháp và lập rất nhiều công lớn, nhưng về già lại bị Pháp bỏ rơi. Ngoài Bắc Hà có Hoàng Cao Khải, trong Nam là có ông. Nhơn vật nầy đã từng cùng với một nhơn vật nữa là Nguyễn Thân, khét tiếng miền Trung, cả hai đồng thủ vai tuồng “đánh bạt Mai Xuân Thưởng” vùng Bình Định [86]. Lính Pháp và quan võ Pháp đánh cùng binh Văn Thân cù nhầy trót một năm trời mà bình không nổi giặc. Người Pháp muốn mua chuộc nhơn tâm, nửa cương nửa nhu, khi chùng khi thẳng và không nỡ xuống tay độc thủ. Pháp bắt được địch quân thì giam vào ngục thất là cùng. Giam mãi ngục thất dẫy đầy người yêu nước, cho nên thét quan Pháp phải viện đến ông. Ông ra quân chỉ có mấy tháng mà dẹp yên vùng Thuận Khánh (Khánh Hòa, Bình Thuận). Ông là người khô ráo dong dảy, môi mỏng, cặp mắt có sát khí. Ông bắt được địch thủ, nhứt quyết không cầm tù và chỉ chặt đầu y quân lịnh: chém người như chém chuối, chém không chừa con đỏ. Các ông già bà cả, nay nghe nhắc tên ông, đều thảy lắc đầu. Chính toàn quyền Paul Doumer đã hạ một câu xác đáng: “Việc ấy đã biết dư, cố nhiên là phải vậy! Nếu muốn (nhơn nghĩa) và chớ chi còn kế hoạch nào khác, thì thà đừng sai hắn cầm binh…” [87]. Ngày nay còn nghe nhắc đến những phương pháp quá bạo tàn: Để đối phó với các địch binh không khứng ra quy thuận và thường ẩn mình nơi thâm sâu cùng cốc, có một cách tuyệt đối: Sai bắt cha mẹ vợ con của người ấy, đóng gông cầm tù. Một mặt bố cáo trong ngoài kỳ hạn bao nhiêu ngày, phải ra nạp mạng. Bằng không thì: – Cha, mẹ, và vợ, bêu đầu làm lịnh; – Trẻ con thì bỏ vào lòng cối giã gạo, sai lính dùng chày lớn quết như quết nem! – Đối với phạm nhơn tội không đáng chết, có khi cũng cho thân nhơn lãnh về. Mà đây là một đau lòng khác nữa. Trò chơi ác độc là bỏ người đàn ông vào nóp lá nóp bàng, mỗi người một nóp may bít đầu đuôi, chỉ chừa một lỗ để lọt “bộ đồ kín” ra ngoài, đàn bà nào nhìn được “của riêng” thì lãnh được chồng về! Néron là bạo quân tàn nhẫn, Lê Ngọa Triều cũng bạo chúa xú danh, còn chưa nghĩ ra việc này! Có một hôm, ra đường nghe một đứa nhỏ lên năm, chưởi cha mắng mẹ. Sai bắt đứa trẻ, bỏ nhịn đói suốt ngày, xế chiều sai lính đưa cho trẻ một chén cơm canh và một đôi đũa thứ đời xưa, một đầu xanh một đầu đỏ. Đũa này thường dùng đầu đỏ và cơm, đầu xanh chỉ dùng khi có tang. Đứa nhỏ cầm đũa so ngay ngắn, để đầu đỏ xuống dưới, cẩn thận. Lên án: tuổi thơ mà đã có trí khôn. Phàm đã khôn thì không phép mắng chưởi người sanh đẻ ra mình: Quết! Quết cho tuyệt những thứ phản cha phản mẹ! Chuyện không đích xác, không dám chắc có quả như vậy chăng, chép ra đây như một tài liệu buổi trà dư, không quên đánh dấu hỏi thật lớn (?) Dẹp xong giặc, được thăng Tổng Đốc và được ban Đệ Tam Đẳng Bắc Đẩu Bội Tinh (Commandeur de la Légion d’Honneur), nhưng chim dữ hết thì ná treo đầu tường, Pháp ngán nên không dùng nữa. Năm 1899, toàn quyền Doumer thân hành từ Sài Gòn đỗ đường xuống nhà thăm, thì đã gần miền, chỉ mấy tháng sau là nhắm mắt. Lạ kỳ là trối trăng dạy “chôn đứng”. Ma chay linh đình mấy chục ngày dài, mỗi bữa ngả bò vật heo thết trên ngàn miệng ăn. Quan tài đặt xuống huyệt có lính tập bồng súng chào, đủ mặt quan Lang Sa dự đám (Paul Doumer. – Souvenirs, trương 59-62). Con trai ăn học bên Pháp, về làm quan ít lâu, cũng khét tiếng như cha, bây giờ chợ Sa Đéc nhà vuông làng Tân Quý Đông còn truyền tụng câu liễn: “Tân thị Mỹ Thành, chánh bổ Lục Na [88] công sáng tạo, Quy dân lạc lợi, Huỳnh đường Trần Bá Thọ kinh dinh” Có dịch tập “Nhị Thập Tứ Hiếu” ra Pháp văn và Quốc ngữ. Sau ra làm hội đồng quản hạt (conseiller colonial), dám ăn dám nói, Doumer nhìn nhận người Pháp cũng không bì. Buồn rầu việc tư, tự tử bằng súng lục.

2/ – Nhơn vật thứ hai của đất Sài Gòn, là một hàm Tổng Đốc có tên đặt một con đường thị tứ nhứt tại Chợ Lớn. Có tiếng là “hiền” hơn ông kia. Người nẫm thấp, phốp pháp, râu bạc le the, râu mép để ngạnh trê vuốt sáp nhọn quớt như cặp sừng trâu. Về già ưa đón đưa tân khách Pháp đãi rượu sâm banh (champagne), cho ăn bánh Petit beurre thứ de Nantes chánh hiệu. Nhà dọn nửa Tây nửa Ta, năm căn đố lương thành vọng gỗ quý chạm lọng khéo léo, trước nhà có sân rộng chưng toàn cây kiểng gốc (cây thế), ngó mặt ra một con kinh nay đã lấp. Doumer tả hình trạng đã viết một câu ngộ nghĩnh: “Người ông giống hệt nhà ông: ngoài bày y phục Pha Lang Sa, trong giữ phong tục bản xứ” [89]. Ngôi nhà nầy nay đã dỡ, đất thì bán cho khách Tàu xây nhà chọc trời làm tửu quán, cao lầu và rạp ciné. Chỉ chừa một khuỷnh để làm nơi thờ phượng. Mấy chục năm về trước, cờ bạc còn thạnh hành, vua đổ bác, “Thầy Sáu Ngọ” nhiều tiền, mướn đấy làm chỗ hốt me ăn thua ức vạn. Nghĩ cho con cháu rân rát, đỗ đạt thành danh, mà từ đường chứa đầy tiếng thô tục, nước bọt và đờm xanh, có phải chăng là căn quả? Tiếng rằng “hiền”, là hiền hơn ông kia, chớ xét ra một đời mâu thuẫn: lấy một tỷ dụ là đối với Thủ Khoa Huân. Che chở cũng y, đem về nhà đảm bảo và cấp dưỡng cũng y, mà rồi bắt nạp cho Tây hành hình, cũng y nốt. Xuất thân hộ trưởng, biết chữ Nho, sớm ra đầu và làm tay sai đắc lực cho Pháp. Thưở ấy, nói tiếng Tây, ba xí ba tú, đâu có “ngon lành” như đời giờ. Sự ấy cố nhiên. Nhưng có một giai thoại như sau, tôi chép ra, nhưng xin cô bác đừng hỏi nhiều vì không bảo lãnh đúng sự thực. Tương truyền vào một dịp đầu xuân, đem dâng cho một quan Lang Sa quà Tết: một con dê xồm bép mỡ kịp đút lò đêm giao thừa. Quan hỏi: “Con gì? Ông cho tôi con gì đó?” Quýnh quá quên phứt, không nhớ rõ “bouc” hay “chèvre”, thôi thì tả hình dạng nó cũng được: “Lũy” “mêm xối xiên” “dà na bắp” “dà na cót” (même chose chien, il y a barbe, il y a corne). Câu này đúng nguyên văn hay chăng, tôi không dám chắc. Điều tôi dám chắc là quan đút lò “dê xồm” ăn ngon lành và từ đó câu kia đã để đời trở nên bất hủ. Gần đây trong Nam còn ưa nói với nhau thành ngữ “mêm xối xiên” để thế từ ngữ “đồng một thể như nhau”. Một giai thoại nữa: Tết Nguyên Đán. Nhà ấy ra câu đối có treo giải thưởng. Câu đối ra như vầy: Đất Chợ Lớn có nhà họ Đỗ, Đỗ một nhà: “ngũ phước tam đa” [90] Không biết quả thật chăng, về sau có người gởi đến câu đáp như vầy, nhưng không nhận thưởng: Cù Lao Rồng, có lũ thằng phung, Phun một lũ: “Cửu trùng bát nhã” [91]. Cố nhiên không ai dám nhận mình là tác giả câu này. Người chép ra đây càng cẩn thận hơn, không cam đoan câu ấy do ai đã học lại.

3/ – Nhơn vật thứ ba, kịch liệt nhứt thời, là Huỳnh Công Tấn. Người tỉnh Gò Công, nay còn thạch trụ trước chợ bêu danh. Ban đầu chống Pháp, sau về làng, dâng lễ ra mắt bằng cách bắn gãy xương sống ông Lãnh binh Trương Công Định. Pháp ghi công cất nhắc lên Lãnh Binh tân trào. Khi lâm chung, ông Tôn Thọ Tường điếu: Phúc qưới thị thảng lai, oanh liệt hùng tâm khinh nhứt trịch, Thinh danh ưng bất hủ, ức dương công luận phú thiên thu. (Giàu sang ấy thoáng qua, lừng lẫy hùng tâm khinh một ném, Tiếng tăm đành chẳng mục, chê khen công luận phú ngàn năm). Con trai là Huỳnh Công Miêng, du học bên Pháp, về xứ lúc đầu theo Phủ Trần Bá Lộc, đánh với giặc “Văn Thân” ngoài Thuận Khánh. Sau này nghĩ sao không rõ mà không nhận chức gì, chỉ ngao du ăn xài theo bực công tử. Đi khắp Lục Tỉnh, đi đến đâu, ưa đánh lộn bênh vực người mắc nạn, hết tiền vô quan Tây “mượn xài”. Quan nể tình cũ ông cha, hằng trợ giúp và dầu phạm pháp cũng không bắt tội. Khi chết được đời nhắc tên trong “vè Cậu Hai Miêng” với danh từ ngộ nghĩnh “lưu linh miễn tử”. Chí ngày nay, ông già bà cả gặp ai hành động ngang tàng mà không bị tội, ưa nói: “bộ thằng đó làlưu linh miễn tử hay sao mà!” Đó là những nhơn vật xuất thân võ biền. Còn sau đây là những nhơn vật biết thừa cơ hội trở nên cự phú, hoặc giữ chí thanh cao cam tâm làm học giả suốt đời, tuy nghèo nhưng trong sạch và được kính mến.

4/ – Trần Ngươn Vị Người tỉnh Long Xuyên, Bát Phẩm cựu trào, tục danh “Ông Hạp”. Sang triều Pháp, thăng lần Đốc phủ sứ. Sở dĩ ghi tên lại đây vì là thân sanh vị trạng sư đầu tiên nước Nam. Trần Ngươn Hanh, đã từng dạy Hán học Trường Ngôn Ngữ Đông Phương (Ecole des languages Orientales), và vì có nhà trên đường Trần Hưng Đạo cận nhà ông Tôn Thọ Tường ở mé sông đường Cầu Kho.

5/ – Trương Vĩnh Ký, tự Sĩ Tài Trương Minh Ký, tự Thế Tài Huỳnh Tịnh Của, tự Tịnh Trai. Đây là ba nhà học giả trong Nam, tiểu sử nhiều nơi đã ghi rõ ràng nên không chép lại. Ông Sĩ Tải nhà ở chỗ nền nhà bà Đốc phủ Phải, đường Trần Hưng Đạo, nơi đây là xưởng dạy cắt may cắt y phục Âu Tây (trại Yên Thế). Ông Thế Tải,dòng dõi ông Trương Minh Giảng, là người từng cầm binh oai trấn xứ Cao Miên, nhà ở đường Đoàn Thị Điểm, con cháu còn rân rát. Ông Tịnh Trai,người Phước Tuy (Bà Rịa), xuất thân thông ngôn chữ La Tinh, có nhờ ông Tôn Thọ Tường chỉ biểu thêm chữ Nho, tác giả bộĐại Nam Quốc Âm Tự Vị, nay còn hữu dụng, nhà trên xóm Tân Định [92]. Ba ông minh triết bảo thân, gần bùn chẳng nhuốm mùi bùn, không ham “đục nước béo cò” như ai, chỉ say đạo lý và học hỏi, sống đất Tào mà lòng giữ Hán, thác không tiếng nhơ, thấy đó mà mừng thầm nước nhà những cơn ba đào sóng gió còn hiếm người xứng danh học trò cửa Khổng. Nghĩ cho tay dao tay súng làm nên sự nghiệp như những nhà kia, nhưng khi nhắm mắt, sự nghiệp hoen ố lụn bại, sao bằng một ngòi bút, một nghiên mực, sự nghiệp văn chương trường cửu của ba ông tiền bối này mới thật quý và thơm.

6/- Sài Gòn có bốn nhà giàu gộc: nhứt Sĩ, nhì Phương, tam Xường, tứ Định. Nhứt Sĩ là ông Lê Phát Đạt. Người Cầu Kho, thuở nhỏ tên Sĩ. Nhơn qua học La Tinh ở Cù Lao Pénang gặp thầy dạy trùng tên nên đổi lại là Đạt. Tuy vậy đời vẫn quen gọi theo tên cũ (Nhà Thờ Huyện Sĩ). Xuất thân thông ngôn chữ La Tinh. (Thời ấy, đào tạo nhơn viên thông thạo chữ và tiếng Pháp chưa kịp, nên phải dùng người ở trường Nhà Dòng ra, học chữ La Tinh, chữ Hán, và chữ Quốc Ngữ do trường Pénang (có lưu gót cũ của Bá Đa Lộc) do các thầy tu dạy và điều khiển). Ông làm việc nhiều năm tại tỉnh Tân An. Tương truyền buổi đầu, Tây mới qua, dân cư tản mác, Pháp phát mãi ruộng đất vô thừa nhận, giá bán rẻ mạt mà vẫn không có người đấu giá [93]. Thế rồi, ép nài ông, ông bất đắc dĩ phải chạy bạc mua liều, nào ngờ vận đỏ, ruộng trúng mùa liên tiếp mấy năm liền, ông trở nên giàu hú. Trong nhà, có treo câu đối dạy đời:

[81] … giận mà nói “hứ” không có tiền kèm theo. [82] Khi binh Pháp sang đây, họ kéo theo quân đội I-Pha-Nho (Tây Ban Nha) cho đồng bè vấn tội vua Tự Đức giết mục sư Pháp và I-Pha-Nho. Bởi chưng bọn I-Pha-Nho không đủ người, nên họ dẫn theo mớ lính thuộc địa của họ là lính mộ tại Manille – tức kinh đô quần đảo Phi Luật Tân ngày nay. Người Mã Lai (Malais) gọi người lính cảnh sát là “matamata”. Do đó đẻ ra danh từ “Mã tà”. Nay thấy trong “Việt Nam tự điển” hội Khai Trí: Ma tà: lính cảnh sát ở Nam Kỳ gọi theo tiếng Mã Lai. Còn danh từ “Ma tà tét” là danh từ khin bỉ của làng dao búa tặng người lính nhát gan giỏi tài “chạy tét”. [83] Ca dao thời ấy còn nhắc: “Bành tô” (paletot) đánh chết xử huề, “Áo thun” chạy lại, đứng kề bành tô! (Bành tô ám chỉ mấy thầy, áo thun ám chỉ bồi dọn bàn…) đều là người có thế lực, đánh chết ai có thể không đền mạng. [84] Cô là vợ mấy thầy, ỷ (dì) là vợ chiệc khách. Danh từ “Bà” chưa mấy thông dụng. Thậm chí các bà bợ Tham biện cũng gọi “Cô Chánh Bẹt Tanh” (Mme Bertin), “Cô Bảy Đốc Công Lác”, thế thôi. [85] Ỷ, Y: tiếng Triều Châu. Tức “di” là “dì”. [86] Theo sách “L’Indonchine (Souvenirs) par Paul Doumer”, Vuibert et Nony, Paris , 1905, trương 162. [87] “Il fallaits’y attendre et ne pas l’envoyer si on voulait et si on pouvait faire autrement” (L’Indochine – Souvenirs par P. Doumer – trương 60). [88] Tên một tham biện Pháp, không rõ chánh tả viết ra sao. [89] Il ressemble à sa maison, ayant pris le costume francaise pour ses relations extérieures et conservante les moeurs indigènes. (P. Doumer Souvenirs.. trương 67). [90] Một nhà hiển đạt: năm trai đậu cao quan lớn, ba gái chồng sang trọng. [91] Cù Lao Rồng ở tỉnh Mỹ Tho là bịnh viện phung cùi. Trong Nam , không phân biệt “phung” và “phun”. [92] Ngày 1er Avril 1961,cụ Trương Vĩnh Tống gọi điện thoại, khen tác giả viết “vui” và cho biết nhà ông Huỳnh Tịnh Của xưa ở xóm Cầu Kho, khi nhỏ cụ thường theo thân sinh là cụ Trương Vĩnh Ký đến nhà nầy nên nhớ rõ. (V.H.S.) [93] Đất Sài Gòn ngày nay mỗi thước vuông, chỗ địa thế tốt giá trên hai ngàn bạc cũng là thường sự. Không bì những năm xưa, mỗi thước một hai đồng bạc, năm ba ống hào, mà không có tiền mua sắm. Còn nói gì hồi Tây qua, nghe nói lại, những chủ cũ đều đồng hè bỏ đất, không nhìn nhận, vì nhận e nỗi quan và triều đình Huế khép tội theo chánh phủ Pháp. Vả lại, cũng ước ao một ngày kia Tây bại trận rút lui, chừng đó ai về chỗ nấy, hốp tốp làm chi cho mang tội… Không dè bởi đất không ai nhìn, nên Pháp lập Hội Đồng Thành Phố, Ủy Ban Điền Thổ, rồi đưa nhau đi khám xét từng vùng. Đến chỗ nào địa thế tốt, thì những hội viên bản xứ nhận là của mình: “Ùy” (Oui) một tiếng! Đến chỗ nào nẻ địa thì lắc đầu, tiếp theo nói “No” (“non”, cũng một tiếng! Chung quy chỉ học hai tiếng “Ùy”, “No” mà có ông lập nghiệp truyền tử lưu tôn. Năm trước tại Sa Đéc, tôi hầu chuyện một bực lão thành, ông Phủ Tân Hàm Ninh, nay đã quá vãng. Ông từng ngồi chủ quận hạt Gò Công. Ông nói: “Trận bão năm Giáp Thìn (1904) xảy ra ngày 1 tháng 5, gió thổi mạnh từ 10g sáng đến 10g đêm, nước lụt người trôi, đất Gò Công bỏ hoang vô số kể. Mặc tình ai đủ can đảm chịu ra mặt đóng thuế thì làm chủ chánh thức. Tuy vậy”, ông Phủ tiếp, “mà có ai thèm đâu. Học chỉ lo vớt thây ma lột vòng vàng ăn sốt dẻo còn hơn tham đất ruộng, rủi thời không tiền đóng thuế mắc nợ ở tù khổ thân ích gì”. [94] Tục danh “Nhà Thờ Huyện Sĩ” [95] Bộ “Điếu Cổ Hạ Kim” của Nguyễn Liên Phong soạn năm 1915, có chia ra phần nhứt “điếu” những danh nhơn quá vãng, phần nhì “khánh hạ” những nhơn vật đương thời (1915). Tác giả có ý kiến rất sớm và làm việc sưu tầm này với rất nhiều trở ngại. Nhơn vật được nêu tên rất sụt sè có khi vì hiểu lầm không khứng cho phép, thành thử còn thiếu sót khá nhiều. Đây là một bộ sách ít ai giữ được và trở nên một sưu tập phẩm hiếm có của những người chơi sách. [96] Tiếng tăm lừng lẫy mà ông chỉ để lại có vài tác phẩm thuộc loại sách hiếm có: 1. Syllabaire quốc ngữ (sách vần quốc ngữ) par Diệp văn Cương interprète du Gouvernment – Saigon , Phát Toán, 55-57 rue d’Ormay, Juin 1909 2. Recueil de morale annamite par Yên Sa Diệp văn Cương. Saigon. Imprimerie de l’Union, 157 rue Catinat, 1917. 3. Tập phong hóa dịch ra quốc ngữ (nhưng tôi không thấy bán). Năm 1966, nhơn dịp ra Huế, một ông bạn chỉ cho tôi xem nền nhà cũ của Diệp văn Cương ở Gia Hội và gọi cụ là “chồng của Mệ Kim”. V.H.S. [97] Thành ngữ “lấy lên” nghe lạ tai và đã có người lầm với “lấy lén”; nhưng “lấy lên” có nghĩa riêng của nó, tức chận lận ăn xớt, ăn bớt, ăn xén lớp trên mặt. V.H.S. [98] “Trút lọp” hay “đổ lọp” nghĩa đen là lấy, trút đổ cá trong lọp ra. (Trong Nam , lọp là đồ dùng bắt cá đươm bằng tre, giống cái bộng, hai đầu đặt hai cái toi (hom), cá chui vào trở ra không đặng.) Nghĩa bóng “trút lọp” là ăn chặn, bắt cá trộm trước của người. Hưởng nước nhứt cục cưng của người ta cũng là “trút lọp”! [99] Hầu sáng: Hậu sanh (bồi bàn) – Phổ ky: Hỏa kế (Luôn tiện chép luôn, thưở xưa có thứ rương da để hút á phiện lúc đi đường, gọi hòm “phù sầu”, tức hòm hộ thủ (thuật theo lời cụ Vi Huyền Đắc) (V.H.S.)

Phần thứ bảy

Nhân vật Hoa kiều hồi Tây mới qua

Những nhân vật Trung Hoa đặc sắc nhất từ buổi Tây sang Nam Việt

Trong sách khảo về Tôn Thọ Tường, ông Khuông Việt có ghi nơi trương 51 và 52 rằng năm 1866 có cuộc đấu xảo đầu tiên trong xứ và qua ngày mồng Bốn tháng Ba có bày lễ phát phần thưởng trước mặt quý ông: Tôn Thọ Tường, tri phủ Trần Tử Ca, tri huyện Nguyễn văn Thi, giáo sư Trương Vĩnh Ký, cùng những ông: Carneiro, Sémane, Manmehdorff, Dunlop, Mettler, Wang Tai và Tấn Phát. Tôi không truy nguyên rõ Tấn Phát là người quốc tịch nào. Đến như Wang Tai, các sách được đọc đều ký âm theo Pháp Văn, không có ghi chữ Hán kèm theo, nên không tài nào biết danh tánh ông cho rõ, họ Vương hoặc họ Hoàng, v.v…? Chỉ thấy nói ông Wang Tai có nhà ở Sở Thương Chánh hiện nay và ông là một thương gia tên tuổi nhứt nhì buổi giao thời. Về các nhơn vật tăm tiếng lẫy lừng của giới Trung Hoa xin kể:

Hui Bon Hoa Tục danh “Chú Hỏa”, mặc dầu về sau danh vọng lớn, địa vị cao, cũng không ai gọi “Ông Hỏa” bao giờ. Sớm nhập Pháp tịch, nên ký âm theo Pháp ngữ làm vậy rồi gọi như vậy cho đến đời đời, không rõ theo Hán tự hà danh hà tánh? Đến nay các con cháu luôn luôn hòa thuận, gia tài giữ nguyên vẹn không chia phần manh mún, chỉ cùng nhau chia lợi tức, và mỗi khi cần dùng một số tiền to tát thì người trong họ phải xin chữ ký của người trưởng huynh khi ấy ngân hàng mới phát bạc. Nhờ giữ gìn có phương pháp cho nên sự nghiệp Hui Bon Hoa ngày càng đồ sộ thêm mãi, không sứt mẻ mảy may nào. Sơ khởi chú Hỏa nghe đâu hùn hiệp với một người Pháp bao thầu khuyếch trương các tiệm cầm đồ (Mont de piété) trong Nam Kỳ. Về sau rã hùn, người Pháp được chia một số tiền to lớn và làm chủ vĩnh viễn các sản nghiệp đất cát miền Lục Tỉnh. Hiện nay, phố xá Sài Gòn một phần lớn là của Công Ty Hui Bon Hoa làm chủ. Nhưng công ty nầy được tiếng là “rất biết điều” và không eo xách, làm khó người mướn phố. Nói đến Chú Hỏa, tất nhiên phải nhắc lại đây các bang trưởng, chủ nhà máy, lò gạch, tiệm buôn lớn, những tay cự phú tuy làm giàu cho họ đã đành, nhưng cũng giúp ích rất nhiều cho sự mở mang thạnh vượng kinh tế miền Nam, trong số tôi chỉ biết sơ những vị sau này, và rất mong các bậc lão thành bổ túc cho thêm đầy đủ.

Chú Hỷ (Khuyết danh tánh) – Có tàu chạy khắp Lục Tỉnh, hễ đường nào có tàu Tây hãng Vận tải đường sông rạch (Compagnie des Messageries Fluviales) thì có tàu Chú Hỷ (như ngoài Bắc có công ty Bạch Thái Bưởi) chạy kèm, giá vé rẻ hơn, cơm nước dễ chịu, bộ hành cũng biệt đãi hơn, nhưng về giờ khắc thì không đúng hẳn như tàu hãng Pháp. Đến bây giờ, còn câu thường nhắc: “Đi tàu Chú Hỷ, ở phố Chú Hỏa” Nam Long Có nhà máy xay gạo bán ra ngoại quốc. Nam Hải Nay còn nhà ở đường Nguyễn văn Sâm (d’Ayot cũ). Di Sanh Long Tiệm bán thuốc Bắc tại Chợ Lớn Nhị Thiên Đường Nay vẫn còn Đồng Thạnh Tiệm bán vàng lá danh tiếng. Chuyên bán vàng nguyên chất đánh ra lá mỏng, cân đúng một lượng, ngoài gói giấy trắng, trong gói một lớp giấy bạch và một lớp giấy đỏ và có in hình con ngựa. Trung bình mỗi lượng vàng thưở trước là năm mươi, sáu mươi đồng bạc “con cò” (piastre mexicaine). Đến năm 1919, vàng sụt giá còn lại mười tám, mười chín đồng bạc Đông Dương mỗi lượng. Qua năm 1943 – 1944, Nhựt đổ bộ, vàng vọt lên một trăm đồng, sau một trăm năm chục đồng một lượng. Ngày nay mỗi lượng lên xuống bốn ngàn, năm ngàn bạc giấy có hơn, thiệt là một trời một vực.

Vi Kính Trang Là ông thầy coi tướng, mỗi lần xem năm cắc bạc, mà nói phong phóc, hay vô cùng. Nhà ông ở trên gác ngõ hẻm rue des Artisans, phía đường Cháo Muối (rue des Marins) trở vô.

Tja Ma Yeng Tục danh Má Chín Dảnh, họ Tạ, giàu có danh trong Chợ Lớn, vân vân và v. v…

Nhưng nhơn vật điển hình nhứt thời lối 1920, có lẽ là Quách Đàm. Quách Đàm Xuất thân mua bán ve chai. Sau kèm thêm mua da trâu, vi cá, và bong bóng cá. Ngày ngày thả rong làng xóm, hai giỏ tre trên vai, quản bao mưa gió. Buổi trưa Đàm thường nằm nghỉ lưng hàng ba phố trống, ghe phen bị một phu vác lúa làm khổ, móc túi Đàm lấy giấu giấy thuế thân để chẹt Đàm chuộc năm xu, một hào, mỗi bữa có đủ tiền uống trà giấc trưa. Như vậy mà Đàm không thù hiềm, khi đắc thời Đàm tìm cho được anh phu, ân cần mời về cho làm cặp rằng xếp bọn vác lúa, không khác chuyện Hàn Tín đối đãi với tên ác thủ đời Tây Hán. Đàm nhờ lanh trí, nhập giới thương mãi thấy việc mau lẹ hơn ai, nên làm giàu cấp tốc. Đàm hút nha phiến đêm ngày, đèn không tắt, giao thiệp lựa toàn quan to, thậm chí Thống đốc Nam Kỳ Cognacq, làm cao không ai có, thế mà cũng hạ mình cầu thân với Đàm. Đàm mua đất vùng Bình Tây nguyên là đất ruộng, mua xong Đàm nghĩ ra một kế để biến đất ruộng trở nên đất thổ trạch châu thành. Đàm hy sinh một số vốn to tát, tự mình xuất tiền đúc một chợ ciment cốt sắt vĩ đại, nay vẫn còn đồ sộ và khéo léo, quen gọi Chợ Quách Đàm (Chợ Bình Tây) [100]. Đổi lại ơn kia, Đàm xin chánh phủ đặt tượng đồng của Đàm nơi cửa chánh môn. Tượng do Đàm xuất tiền đúc nắn, ăn vận triều phục Mãn Thanh, nón nhỏ, áo ngắn phủ trên một chiếc áo thụng, đầu để bín, tay cầm một bản đồ, dưới bệ đá trắng có mấy con giao long bằng đồng phun vòi nước bạc. Chợ xây rồi, chung quanh đó, Đàm dựng nhà lầu kiểu phố buôn bán và toa rập với chánh phủ Pháp định dời Chợ Lớn về đây, trước dẹp chợ cũ xấu xí, sau mở mang thành phố cho thêm tráng lệ. Không ngờ địa lợi chưa thuận, thêm dân cư thưở ấy không được đông đúc như bây giờ, vả lại các thương gia Huê Kiều đã yên nơi yên chỗ cũng không muốn dời phố mới xa xuôi thêm hao tốn: Đàm thất bại một phần nhưng không lấy đó làm mối lo. Để thấy mánh lới, gan dạ của Đàm, kể ra đây một tỷ dụ: Một năm nọ, Đàm sai mua lúa khắp Lục Tỉnh trở về trữ ngập kho ngập chành trong Chợ Lớn, chờ ngày chuyển sang thị trường Tân Gia Ba. Xảy đâu tin dữ bên Singapore gởi qua cho hay lúa ối và sụt giá! Cứ đà này, lúa của Đàm dự trữ đã mất lời mà còn phải chịu lỗ lã, số tiền hao hụt không thể tưởng tượng. Đàm vẫn bình tĩnh như thường, lại ra mật lịnh cho bọn tay sai Lục Tỉnh cứ tiếp tục mua lúa thêm mãi, giá y cựu lệ, như không có việc gì xảy đến. Chẳng những vậy, Đàm còn hô hào dạy cứ mua giá có thể cao hơn trước mỗi tạ một vài đồng xu để người bán ham lời không bán cho người khác. Một mặt, Đàm gởi mật thơ cho đại diện bên Tân Gia Ba căn dặn tống sang đây một điện tín khẩn cấp đồn đãi rằng lúa sắp vọt giá lên cao hơn nữa… Quả nhiên, các nhà buôn lúa cạnh tranh với Đàm, tuy kinh nghiệm có thừa, nhưng không thóat được quỷ kế của Đàm. Các chành ùn ùn xúm nhau kiếm mua lúa với giá cao để có đủ số ăn thua cùng Đàm. Đàng này, tuy nằm hút á phiện, nhưng Đàm vẫn lén sai bộ hạ bán đổ bán tháo lúa dự trữ bấy lâu ra gần sạch kho. Lúa Đàm bán xong, các nhà buôn kia cũng vừa ngưng mua, thầm biết mắc mưu độc. Các nhà buôn đã chia nhau mua lúa của Đàm, chia nhau gánh lấy sự lỗ lã của Đàm, và phen này hú hồn. Đàm nằm hút cười thầm “kế mượn tên” của Gia Cát Khổng Minh lẩm rẩm mà thâm thúy vô cùng, và ngày nay vẫn còn hiệu nghiệm. Kể ra Đàm rất nhiều cơ mưu, và trong thương giới quả Đàm là một tay lợi hại. Đàm tuy là một khách trú không mấy ai biết nhiều, nhưng ai biết được Đàm cũng đều cầu thân để cậy nhờ nhiều việc. Một hội viên hội đồng quản hạt chở mía cây đến bán cho Đàm, ngồi chờ Đàm hút, dạ thưa kính nể còn hơn vào chầu Thống Đốc, để chi? Để Đàm vui dạ, khứng mua cao lên vài xu và mua gấp để mía khỏi “rượu” và “mất cân” được đồng nào hay đồng nấy. Về sau, Đàm giàu quá, xoay qua đứng bảo lãnh (avaliser) cho con nợ nhà băng “Đông Dương Ngân Hàng”. Mỗi lần xin chữ ký bảo chứng, phải chịu cho Đàm một huê hồng đã quy định trước. Dè đâu gặp năm kinh tế khủng hoảng, các nhà buôn vỡ nợ không đủ sức trả bạc vay, nhà băng phát mãi sự sản, lôi kép nhà họ Quách sụp đổ theo luôn. Nhà buôn Quách Đàm lấy hiệu “Thông Hiệp”, trụ sở ở Quai de Gaudot, nay là đại lộ Khổng Tử, nhưng thời ấy còn là một con kinh chưa lấp. Tương truyền khi sắp phát tích, Đàm đến nhờ một thầy Tàu cho chữ hiệu. Ông thầy Tàu ngồi thềm đường viết liễn Tết thung dung hỏi Đàm làm nghề gì? Đàm thưa: “mua bán da trâu và vi cá chở đi xứ ngoài”. Thầy Tàu suy nghĩ giây phút rồi viết cho hai chữ: “THÔNG HIỆP” vừa mạnh vừa tốt, lại kiêm theo hai câu liễn:

Thiệt là tuyệt diệu! Đàm mừng khấp khởi, khắc bảng phết son thếp vàng. Quả thật từ đấy việc làm ăn của Đàm ngày một phấn chấn, thịnh vượng, bành trướng khắp biển Đông núi Việt. Số tiền lời không xiết kể. Khỏi nói, từ đó năm nào Đàm cũng không quên công ông thầy Tàu cho chữ. Đến chừng bị nạn kinh tế, gia tài sụp đổ, Đàm không trách nhà buôn do mình bảo lãnh sai lời, để mình “chết theo một bè”. Đàm chỉ căm thù ai kia đã lấp con kinh trước nhà, làm “hư phong thủy”. Đàm đinh ninh tin tưởng vào lời thầy địa lý năm xưa, dạy rằng chỗ Đàm đóng đô là “đầu một con rồng”, khúc đuôi nằm tại biển cả! Dặn coi chừng đừng cho lấp kinh, tức lấp “mạch rồng”, và nếu một mai mạch rồng khô cạn, nguy cho cơ nghiệp họ Quách. Phố lầu chỗ Quách Đàm buôn bán thưở ấy, Đàm mướn mỗi tháng đến ba trăm đồng bạc. Đàm nài mua lên nhưng chủ không ưng bán. Đàm dư tiền nếu muốn xây cất bao nhiêu nhà to đẹp lại không được, nhưng Đàm vẫn tin “cuộc đất làm ăn khá”, mắc bao nhiêu cũng không nệ, và chẳng khứng bỏ cuộc thế ấy để đi chỗ khác: lấp con kinh “sinh mạng”, Đàm giận cũng phải! Quách Đàm chết, đám ma lớn không đám nào bằng. Bàn đưa không thể đếm. Đủ thứ nhạc Tây, Tàu, Ta, Miên… Khách đi đường có việc, miễn nối gót theo đám ma vài bước là có người lễ phép đến dâng một ly nước dừa hay la ve và riêng tặng một quạt giấy có kèm một tấm giấy “ngẫu” (năm đồng bạc) đền ơn có lòng đưa đón. Một phú gia giàu sang bực ấy, mà nay còn gì? Gần chùa Giác Lâm trong Chợ Lớn thuộc ranh tỉnh Gia Định, một ngày mới đây, tôi thấy một bầy bò sữa đứng ăn cỏ trên một ngôi mộ có vẻ hùng tráng nhưng trơ trọi điêu tàn. Cạnh bên là một đám ruộng khô chứa một đống rác to bằng đống lúa chưa vô bồ, ruồi muỗi lằn xanh bay vù vù như một đám nhạc hỗn độn. Địa thế “hữu bạch hổ” không còn; “tả thanh long” và ruộng nọ đang lấp, còn chăng là bầy bò nhơi cỏ gần đống rác và mớ ruồi lằn, ấy là hiện trạng ngày nay của mộ phần “phong thủy” ông Thông Hiệp.

[100] Về chuyện Chợ Quách Đàm, ngày 12-4-1961, ông Bác sĩ Diên Hương, về ẩn trên Đà Lạt (nay đã từ trần), có viết cho tác giả một bức thơ, nay xin đăng nguyên văn để công lãm: “… Lúc đó Chánh Tham Biện Chợ Lớn thấy Chợ Cũ (ở chỗ nền nhà Bưu Điện Chợ Lớn hiện thời) nhỏ hẹp, không đủ cho bạn hàng nhóm chợ, và cũng muốn mở mang châu thành, mới kiếm đất xa Chợ Cũ cất một cái chợ mới cho rộng cho lớn. Ông biết có một ông điền chủ ở châu thành, người Việt Nam dân Pháp, có đất rộng lớn, mới mời đến hỏi mua. Ông điền chủ nầy không thấy rộng nghe xa, tưởng là gặp cơ hội, liền ưng thuận mà với một giá mắc quá tưởng tượng. Ông Quách Đàm nghe chuyện đó, liền cho người đến dâng một miếng đất rộng hơn (chỗ chợ ngày nay) không đòi tiền, chỉ đòi được phép cất phố và sập chung quanh chợ, để sau này cho mướn… ông Chánh lẽ tất nhiên chịu liền…” (Diên Hương).

Câu hát, câu hò thưở trước

[101] Louise Alcan và hai cô gái lần lượt tự tử trên góc nhà lầu Carabelli Charner.