Thịnh Hành 4/2024 # Truyện Và Thơ Lê Quốc Hùng # Top 8 Yêu Thích

Dân tộc Thái có tiếng nói thuộc hệ ngôn ngữ Tày- Thái cũng như dân tộc Tày là người bản địa thổ dân các Bộ Ai Lao, Tây Vu, Kỳ Hưng, Tân Hưng, Tây Bắc nước Văn Lang đến Đại Việt nghìn xưa. Dân tộc Thái có nền văn minh sớm, có lịch Thái và chữ viết Thái. Đặc biệt có nền văn hóa và văn học dân gian đậm đà bản sắc dân tộc vào bậc nhất Tây Bắc Việt Nam.

Riêng về truyện cổ dân gian Thái có một kho đồ sộ ghi trong thư tịch Thái, truyền miệng từ đời này sang đời khác, được lưu giữ trong trí nhớ di truyền của mỗi người dân, cần được điền dã sưu tầm, không thì mai một dần. Ngày nay đã công bố ở địa phương và trung ương một số truyện cổ Thái sưu tầm nghiên cứu nhưng chưa nhiều.

Quyển sách này giới thiệu 58 truyện cổ Thái từ thời Văn Lang đến Đại Việt, Đại Nam đủ các thể loại thần thoại, truyền thuyết, cổ tích , sự tích, sự thế, nhân thế, ngụ ngôn, truyện loài vật, truyện vui.

Nội dung phản ánh lịch sử thiên nhiên xã hội cuộc sống muôn màu của người Thái từ cổ đại đến cận đại. Những truyện : “Trời đất và loài người”, “Mặt trời mặt trăng và các vì sao”, “Đàn con của Then được phong thần”, “Chim Cú ăn Mặt trời mặt trăng”… là thần thoại giải thích nguồn gốc vũ trụ, muôn vật và loài người, lý giải các hiện tượng tự nhiên bằng trí tưởng tượng đơn giản, hồn nhiên, ngây thơ và lý thú theo lối tư duy riêng của người Thái mà các dân tộc khác không có. Chẳng hạn người Thái đã giải thích do Then quyết định sự sống chết của loài người nên đã trải qua năm lần tuyệt chủng để sinh ra những thế hệ loài người mới văn minh tiến bộ hơn. Đó là các thời kì nguyên thủy trời đất liền nhau, giã gạo vướng chày, người ăn hang ở lỗ con không bố, Then gọi hết về trời; sau đến trời đất cách xa nhau, cây lúa tự gieo mạ tự gặt về bịch rồi lúa lười bắt người cấy gặt, người già người lột, không sinh nở phát chán, Then nổi giận mở bảy đường nắng hạn hán, rồi lại mở chín đường mưa đại hồng thủy, người vật chết hết xong một kiếp; tiếp đến Then sinh ra lớp người tiếp theo làm ăn khó khăn, cỏ cây héo hon, chim muông không biết hót, người chán nản, kêu van Then lại cho về trời; Then lại tạo ra người vật khổng lồ, mở ra thời đại ông bà Ải Lậc Cậc, cày bừa san mặt đất, mưa thuận gió hòa, muôn vật tốt tươi con người sung sướng. Then lại bắt người khổng lồ chết hết; Sau cùng Then cho loài người khác xuống trần tạo ra thời đại Tum Hoàng tìm mường ăn mường đặt tạo lập bản trên địa bàn chín con sông (Tây Bắc Việt Nam ngày nay). Thần thoại Thái phản ánh tuy chưa khoa học nhưng đúng như lịch sử loài người ngày nay được biết đã trải qua 5 lần thiên tai tuyệt chủng lại phục sinh.

Công việc tạo lập vũ trụ là do Then song còn do con người khát vọng anh hùng của người nguyên thủy đã cầm chày đâm vỡ tan 6 mặt trời chống nóng, 6 mặt trăng chống lạnh mà có các vì sao đỏ, vì sao vàng, vì sao xanh. Do chịu nóng lạnh khác nhau trong chiến đấu mà sinh ra 5 chủng người màu da đen nâu đỏ vàng trắng.

Các truyện Ông bà Ải Lậc Cậc, Tạo Cập Ý Kè vừa là thần thoại vừa là truyền thuyết giải thích sự hình thành sông núi, công cuộc chinh phục thiên nhiên mở mang chín châu mười mường của người Thái Tây Bắc và giải thích nguồn gốc các dân tộc Việt Nam ngày nay.

Các truyện Tổ tiên Người Thái, Nàng Sa Nhất, Họ Khăm giữ đất giữ mường, Lò Lạng Chượng, Ngưu Hống, Sa Khả Tham, Khả Lam quận công, Chúa động Ma Sa, Hai anh em họ Đào, Tự chặt chân tay… là truyền thuyết lịch sử người Thái ở Tây Bắc Việt Nam nói riêng Đông Nam Á nói chung trong tiến trình lịch sử đã sớm có ý thức tự chủ tự cường dân tôc rìm mường ăn mường, dựng tạo, lập bản, lập quốc, mở mang bờ cõi lãnh thổ đã đóng góp xây dựng thời đại Hùng Vương, nền văn minh Đông Sơn rực rỡ, lập nước Văn Lang Âu Lạc, làm chủ các Bộ Tây Bắc Ai Lao, Tây Vu, Kỳ Hưng, Tân Hưng với tên tuổi anh hùng dân tộc như Tum Hoàng, Tạo Xuông, Tạo Ngần, Thục Chế, Thục Phán, Tây Vu Vương, Lò Lạng Chượng; đặc biệt là lòng yêu nước, tự tôn dân tộc, đấu tranh kiên cường bất khuất, chống Hán xâm lược, bảo vệ lãnh thổ vùng biên giới phía Tây Bắc, tham gia các cuộc khởi nghĩa kháng chiến lập quốc của các triều đại Đại Việt hướng về cộng đồng Đại Việt-Đại Nam với những người anh hùng Thái như Sa Khả Tham, Khả Lam thời Lê Sơ, Đào Quốc Kế , Đào Quốc Uy, Cầm Hánh thời Nguyễn. Những nhân vật lịch sử Thái như Ngưu Hống Thời Lý Trần, Đèo Cát Hãn thời Lê Sơ, vua Xiêm La thời Tây Sơn có ý thức tự tôn dân tộc Thái quá khích tranh giành quyền lực gây nội chiến và chiến tranh xâm lược đáng phê phán lên án.

Các truyện Sự tích Mường Then, Cây đa Mường Then, Người diệt Diều Hâu tinh, Người Diệt Quỉ Nhai, Sự tích bản Lấm, Trâu đá gẫy một sừng, Nghiên bút thần… đề cao những người anh hùng huyền thoại Thái chống thiên tai hạn lụt và các thế lực tự nhiên muông thú hung ác bảo vệ cuộc sống của con người và muôn vật bình yên, đề cao trí tuệ Thái vị nhân sinh, đánh giặc ngoại xâm.

Truyện cổ tích Thái phong phú đa dạng, những truyện sự tích mường bản , hang suối, cây cỏ, trang phục… như Sự tích bản Lốm, Suối Nước Mắt, Sự tích suối Hát bản Hát, Sự tích bụi nứa tép và cây sáo pí pặp, Sự tích hang Bu suối Bu bản Bu, Sự tích suối đá cuội và chim lộc ít ở núi Phiêng Cại, Sự tích cây hoa ban và lễ hội Hoa Ban… đều phản ánh tình yêu nam nữ tự do, say đắm, thủy chung nhưng éo le bất hạnh vì phân biệt đẳng cấp giầu nghèo, vì lễ giáo phong kiến môn đăng hộ đối, yêu nhau không lấy được nhau dẫn đến cái chết bi kịch biến thành các sự vật vĩnh cửu lưu truyền nhắc nhở cảnh tỉnh cho muôn đời sau tranh đấu giành tự do luyến ái cho con người và phê phán hôn nhân lừa gạt mua bán ích kỷ xấu xa. Chủ đề tình yêu nam nữ tình vợ chồng hạnh phúc chung thủy có tính nhân văn sâu sắc lãng mạn được thể hiện qua các truyện Đôi người lại gặp nhau, Mối tình già bên bờ Nậm Thia… Nhiều truyện nhân thế phản ánh nhiều thân phận con người như trẻ mồ côi mẹ ở với dì ghẻ bị hại, được linh hồn mẹ đẻ cứu thoát trở thành vua lúa, vinh hoa phú quí trong truyện Vua Lúa, người em mồ côi bị vợ chồng người anh hất hủi, chiếm hết gia tài, đã làm ăn vượt khó tự cứu lấy mình trở thành giầu sang phú quí giúp ích cho xã hội hạnh phúc vẻ vang trong truyện Buồng chuối vàng, Cây thuốc hoàn sinh… Người em mồ côi biết giữ gìn kỉ vật thiêng liêng của gia đình, kế thừa phát huy được truyền thống, trở thành người vinh gia hiển quốc anh hùng cứu nước trong truyện Nghiên bút thần. Một anh chàng vô nghề nghiệp chỉ biết chơi, trong cái chơi anh biết nắm bắt thời cơ, vận hội, dùng ba tấc lưỡi làm giầu cũng phất lên thành người phú quí trong truyện Sự tích con cò rình bắt cá bên dòng nước chảy. Ông lão và đứa trẻ ở hiền sống thân thiện với muôn loài được trả nghĩa thoát tai ương bệnh tật thoát hiểm trong tuyện Thầy lang Hổ và Chú nai con. Mặt khác các truyện này còn phê phán những kẻ sống bất lương bất thiện không tôn trọng vạn vật muôn loài dù là quan như chi châu chột mắt (Thầy Lang Hổ), hay là dân như cô Lò Miên kênh kiệu, cư xử ác với con hươu vàng (Con hươu vàng bên bờ Nậm Đung) và mụ dì ghẻ hại con chồng (Vua Lúa) đều bị trả giá thích đáng. Các truyện cổ tích khác như Ma cà rồng, Người nghiện hổ nghiện có tính phê phán thói dễ tin, định kiến, thành kiến dễ bị những kẻ thống trị phìa tạo và thầy mo cầm quyền và thần quyền, biến con mắt nhìn tốt ra xấu, ích kỉ vu oan cho những con người ngay thẳng lương thiện thành ma cà rồng để đuổi ra khỏi cộng đồng xã hội; thói xấu xã hội lôi kéo bạn bè vào con đường nghiện hút ma túy để phá sản tan nát gia đình, cô đơn, chết khổ…

Truyện loài vật và ngụ ngôn Thái như Chàng cáo và cô vịt trời, Chuột vẫn là chuột, Mèo và chuột…nêu lên những bài học nhân văn sâu sắc sống mãi từ ngàn xưa đến mai sau . Chẳng hạn truyện Chuột vẫn là chuột cho thấy: Trời cho mỗi con vật cũng như mỗi con người không cho tất cả, được cái này không cái kia, nên đừng ganh tị, mơ ước đổi đời hão huyền, hãy cứ làm đúng chức năng bổn phận trời cho mình thì tồn tại, có chỗ đứng xứng đáng trong trời đất, bằng không thì chẳng nên vật nên người.

Truyện vui Thái như Người ở rể và bố vợ, Cậu bé ham chơi cù quay, vừa gây cười vừa có tính phê phán và rèn trí thông minh, có tác dụng giáo dục tốt.

Truyện cổ Thái còn là bức tranh sinh động về thiên nhiên xã hội phong tục tập quán nếp sống văn háa Thái thấp thoáng trong các truyện như văn hóa trang phục phụ nữ Thái, văn hóa ẩm thực Thái, văn hóa Lễ hội Thái như lễ hội cầu mưa, Lễ hội lồng tồng, đặc trưng văn nghệ Thái múa xòe, múa sạp, hát khắp, đàn tính tẩu, sáo pí pặp, kiến trúc Thái nhà sàn bốn mái hình mai rùa…

Cũng như các dân tộc anh em khác, Truyện cổ Thái có đầy đủ đặc điểm nghệ thuật thi pháp ngôn từ của các thể loại như tự sự , trữ tình, hiện thực phê phán , lãng mạn kì ảo. Nội dung hình thức có giá trị nhận thức, giáo dục, thẩm mỹ, giải trí và dự báo, và đóng góp nhất định cho nền văn học dân gian Việt Nam đa dân tộc, đa màu sắc.

Quyển sách này do tôi nguyên giáo viên THPT và Hội viên Hội VHNT tỉnh Yên Bái đã điền dã và tham khảo tài liệu trong thời gian dạy học ở tỉnh Hoàng Liên Sơn cũ sưu tầm, biên soạn, nhằm phục vụ giảng dạy khi đương chức, nay trình làng. Ngọc còn có vết. Chắc chắn quyển sách còn nhiều hạn chế mong được bạn đọc chỉ giáo, phê bình gửi về Nhà xuất bản để lần tái bản sau quyển sách được hoàn thiện tốt đẹp hơn. Xin chân trọng cảm ơn.

Ngày ấy, trời sinh ra mới nhú lên bằng hoa nấm, đất mới dựng chụm lại thành ba cột. Từ miền bảy quả đồi, miền chín ngọn nước, miền mường Ôm mường Ai, mường Lò ngoài vòm trời nước chảy và từ miền sông Đà trong xanh sông Thao nước đỏ gặp nhau.

Then cử bảy chúa đều là người trời đem con cháu gồm có 10 giống Xá (Kháng, La Ha, La Chí, Xinh Mun, Khơ Mú…), 5 giống Thái xuống “ăn” đất trần gian để dựng bản lập mường. Nhưng loài người lúc đó còn dại lắm. Có bản không biết lập mường. Có mường không biết đặt tạo. Họ từng bầy từng lũ lang thang ven rừng khe suối. Nhà cửa chưa biết làm . Đến tối gặp đâu ngủ đấy, nay gốc cây mai hang đá. Họ kiếm được gì ăn nấy. Ban đầu ăn lá hoa củ hạt. Sau ăn cả động vật không cần chọc tiết, ăn thịt tươi đỏ loét không biết tanh hôi. Thế mà ngưòi họ vẫn khỏe, thân rắn như đồng như sắt, chân chạy nhanh thì bắt được hươu, tay vơ vội được chim được sóc.

Họ không có quần áo che thân, trần truồng như bầy thú. Họ không biết nên vợ nên chồng, ăn chung ở đụng. Con đẻ ra không biết bố, người lớn lên không biết dòng họ. Thực là hỗn độn không cùng giống. Vạn người không cùng bản, làm sao họ dựng nên trần gian được. Then đành phải gọi hết về trời.

Then lại cho lớp người khác xuống. Thuở ấy người già người lột, rắn già thì rắn chết chui tuột vào săng. Thế mà rắn vẫn nhiều như cây rừng. Mọi vật đều biết nói. Con đỉa còn biết kêu. Con vắt còn biết nghe ngóng. Rái cá biết trả lời. Nai hoãng biết kêu than. Cú vọ chim ưng biết kể chuyện. Lợn chó biết kêu xin. Cỏ cây biết tiếng người. Người muốn giết, vật van lạy. Người muốn chặt, cây xin tha. Cây chặt ra máu chảy như máu người. Riêng cây chuối không biết nói. Người mới dùng chúng làm nhà ở.

Thuở ấy trời còn thấp lè tè.Người đứng với tay cũng tới. Bò đi còn vướng cổ. Lợn đi còn vướng lưng. Giã gạo sợ vướng chày. Phơi lúa e vướng nong. Xe chỉ lo vướng guồng. Người lên trời thì bước cao, đi xuống đất thì bước thấp. Thuở ấy hạt lúa to bằng thúng cái, hạt đỗ to bằng thúng con. Bẹ rau cải phải lấy rìu chặt. Lá cây bông bằng lá dong. Nhúm bông xe sợi đủ mắc khung cửi dệt. Người làm ít được ăn nhiều. Then lại cho người biết đan chài có chân sắt có chân đồng xuống. Từ đó thức ăn kiếm càng dễ dàng.Chài quăng xuống nước được cá chiên, cá trắm, quăng lên cạn được ăn nai ăn hoẵng, quăng vào bản úp được hồn người.

Người thuở đó ăn gỏi ăn lạp. Lại thêm lúa trong bịch hết, lúa khắc về nhà. Cá hết, cá khắc nhảy lên chậu. Muốn gieo lúa , lúa tự bay vào ruộng mạ. Muốn được quả, quả khắc hiện trên cành. Một lần mẹ con nhà góa bụa, tính hay cáu gắt, đi nương gặp khóm lúa cao làm vướng tai vướng cổ , bèn cầm dao băm hạt lúa. Lúa rơi xuống nằm lẫn trong đất trong cát. Lúa biến thành như loài cỏ. Từ đó ai lấy lúa về gieo mới có ăn. Lúa cũng lười không đi vào bịch. Lúa trên nương đợi người đến ngắt. Lúa dưới ruộng bắt người đến gặt.

Ngày ấy , gà không làm ổ, khi đẻ không nhớ chuồng. Gà tranh nhau chỗ ở, giành nhau trứng. Người ta cũng quên chỗ trú, dựng nhà quên mất nhà. Người như gà ở lẫn lộn tranh giành nhau. Việc đó không hợp ý Then. Da Náng Then ( vợ Then ) trên trời giận dữ, sai cắt dây cát căn dây gắm làm đứt đường lên trời xuống trần. Trời dâng lên cao, lên cao mãi chín tầng mây cách biệt hẳn mặt đất, cao bằng sáu đời cuông , hai đời tạo. Trời đất xa nhau bằng ba đống tơ, to bằng ba con trâu, xa bằng bảy đống mây, to bằng bảy con voi, xa bằng ba trăm ba mươi sáu đường tên đi, năm trăm năm mươi lần đạn réo.

Thuở đó, người già người lột nên sống lâu. Sống lâu lại không được sinh nở. Sống lâu mãi mãi phát chán vì không được về trời. Người mới bảo nhau làm trái ý Then. Họ đi lùng giết ếch nhái, giết rắn lấp hang cóc. Các con vật hãi hùng kêu thấu điếc tai Then. Then nổi giận cái tức bằng ba con trâu, cái giận bằng bảy con voi. Then bèn mở bảy đường nắng, đóng chín đường mưa. Dưới trần hạn hán kéo dài. Nắng dữ đất cằn cỏ héo. Trâu bò chết đói chết khát. Lúa trên nương trên rẫy khô cháy. Ốc dưới đồng sâu chết cạn. Men rượu trên gác bếp nhuộm khói. Củ mài mục hấp hơi dưới hố sâu. Người đi buôn chết khát giữa đường. Người muốn ăn cá không có. Người làm đồng muốn ăn con bọ xít châu chấu niêng niễng không còn. Loài người đều chết hết. Kẻ chết dưới gốc gạo, người nằm bên gốc đa. Trần gian duy sót lại Lạng Ải và Lạng Nhi. Họ phải đưa nhau lên Thanh Nưa làm đăng làm đó bắt cá. Ba ngày họ mang cá chiên qua, cá không qua. Sáu ngày họ mang cá trắm xuống, cá không xuống. Tức quá họ lấy gỗ rừng đóng quan tài. Họ giết rắn rồi giả làm ma, liệm nhái như liệm người chết. Lấy ốc làm rau, bắt cú làm chủ hồn, con ruồi làm chủ áo, đem con kì dông về thay người giót rượu. Cúng rượu lên trời cúng bằng chum con. Quả nhiên Then giận bằng ba con trâu, tức bằng bảy con voi, sai mở chín đường mưa, đóng bảy đường nắng. Sấm vang chớp lóe. Mây kéo tối trời. Khắp trần gian mịt mùng như ngập trong chậu nước ỏm trám đen. Hạt mưa to bằng quả táo. Khắp sông suối đầy tràn . Hồ ao ruộng đồng đồi núi đều ngập. Nước dâng tới cửa trời, cuốn cát sỏi vào bậc nhà trời. Ba tháng vẫn còn mưa. Sáu tháng mới cạn. Loài người sặc nước không còn ai. Cây cỏ đều rữa nát. Mùi hôi thối nồng nặc xông lên thiên đình. Then không chịu nổi lại mở bảy đường nắng, rút chín đường mưa. Trần gian nắng như lửa đốt. Người vật cây cỏ chết gặp nắng mủn ra tan thành cát bụi. Đất nung thành gang cháy đỏ. Đá biến thành vôi. Người vật lại xong một kiếp.

Then lại sinh một kiếp người cho xuống trần gian nối dõi. Lúc đó mặt đất khô cằn. Cây cỏ chưa mọc. Trâu bò voi ngựa chưa có cái ăn. Mạ dưới ruộng héo khô. Lúa trên nương cằn cỗi. Rau trồng không nảy nhánh. Cây rừng không ra hoa kết quả. Người ta be bờ không thành vũng, khơi dòng suối nước không chảy. Họa mi không hót gà không gáy. Chim cu không gù. Vượn không hú. Cáo không chạy chơi. Công không múa. Dơi nằm lì trong hốc đá. Loài người đâm chán nản. Kiếp người thật ngắn ngủi. Họ không muốn sống lâu dưới trần gian, kêu van Then xin về chầu trời.

Then buồn bực lắm, sai Thần Me Bảu nặn đúc lứa người khác đưa xuống trần gian. Lần này loài người to bằng ba quả núi. Tai bằng chiếc quạt lúa. Má phình tựa mái nhà. Đùi to năm người ôm không xuể. Đó là con cháu Ải Lậc Cậc. Họ giáng trần mang theo bò chín ngàn bướu, trâu chín ngàn vai, cày bừa khỏe như sức voi. Họ cày bừa mặt đất làm ăn. Xan gạt núi đồi thành ruộng nước. Họ dùng mai trạm trổ cán bịt bạc để đào mương đắp phai. Họ cày đất đen lên lộn đất đỏ xuống. Đất màu mỡ trùm lên đất xấu. Đường cày rộng đủ cho ngựa phi. Ruộng cấy đủ hai chục trâu chạy. Then cho mưa thuận gió hòa. Trâu bò có cỏ ăn. Voi ngựa no bụng. Lúa ruộng cấy chín vàng đầy đồng. Lúa nương gieo xanh mượt mà rẫy. Rau non mập mạp vút tầm cao. Quả chín vàng thơm ngọt chĩu cành. Be nước , nước thành vũng. Khơi suối nước chảy tràn. Lợn chó không chết gà vịt không toi. Muốn làm gì được nấy. Chín châu mười mường đầy tiếng ca. Qua hai ngàn mùa lúa chín, qua hai ngàn đời cá ruộng, lớp người này lại đua nhau về chầu trời, bỏ lại trần gian vắng tanh. Lúa mọc không có người ăn. Đất bằng vắng bóng người đi. Đó là lúc Ải Lậc Cậc bị Chô Côm bẻ gẫy giò chết.

Tiếp đó , Then lại cho lớp người khác xuống trần gian xếp đặt lại. Then cử tạo Tum Hoàng làm chủ ngọn sông Nậm Lài, Ao Xe, Nậm Tè, Nậm Na, Nậm Tao. Tạo Tum Hoàng là con rể Then đưa hai anh em tạo Xuông tạo Ngần xuống “ăn” đất mường Ôm, mường Ai ngoài vòm trời. Then cho hai tạo tám quả bầu, tám cái cột đồng chống trời. Các thứ đó được giao cho 330 người họ Xá, 550 người họ Thái khiêng xuống mặt đất. Trong quả bầu Then đựng 330 giống lúa, 330 giống cá, có cả sách cúng, sách bói, sách xem ngày tháng tốt xấu. Then dặn khi người trần sinh nở phải treo nhau thai ra ngoài trời cho Then biết.

Cha con tạo đến cánh đồng Xe gặp Đá Nhai Lại. Đá Nhai Lại kêu đôm đốp, kêu lộp cộp. Ai cũng sợ cũng run. Hai tạo cử bà một, ông mo, ông chang đặt lễ cúng. Cúng cả trâu lợn dê, cúng không thiếu thứ gì. Chủ Đá vẫn không ưng. Hai tạo lại sai bà một ông mo ông chang dân trai tráng ném 330 giống bưởi 330 giống bòng vào mồm đá nhai lại. Đá bị ghê răng lạnh gáy ngừng nhai. Hai tạo sai bò xuống trước. Bò kêu ò bò. Vì vậy nay sừng bò cụp về phía trước. Hai tạo lại sai trâu xuống . Trâu sợ, trâu kêu nghé ọ. Bởi thế nay sừng trâu ngả về phía sau. Hai tạo cho ngựa xuống. Ngựa sợ bỏ sừng lại. Nay ngựa không còn sừng. Nai xuống tiếp theo nhặt được sừng của ngựa. Nai từ đó có sừng. Hai tạo đi gặp chủ khoét lỗ trời nhờ khoét lỗ làm đường xuống trần gian. Tạo mới xuống mường Cang rồi đến mường Ôm, mường Ai ngoài vòm trời. Mường Ôm sẵn nguồn trâu, mường Ai sẵn nguồn thóc. Nhưng ở đó người vật chỉ ăn hơi ăn hương ăn hoa, chỉ ngửi mùi cơm, mường Ôm mười Ai không ở được.

Hai tạo cho xuống mường Bỏ Té sáu quả bầu sáu cột đồng chống trời. Tạo cho đất Kinh, đất Mọi, đất Lào mường Dôn mường Tao hai quả bầu và hai cột đồng. Tạo Xuông tạo Ngần xuống dựng mường Lò Luông. Cùng theo có các họ Lò, Lường, Quảng, Tông , Lào. Những họ này tôn họ Lò làm chủ. Lúc đó đất mường Lò đã có người Mọi người Mang cư trú. Xây dựng xong mường Lò, tạo Ngần về mường Bo, còn tạo Xuông ở lại, lấy vợ ở đó sinh con là tạo Lò. Tạo cho Khun Lưởng làm mo, tạo Lò làm chúa. Về sau không sống ở đó tạo Xuông trở về mường Ôm mường Ai quê cũ.

(Theo Đặng Nghiêm Vạn và Trương Sỹ Hùng)

Mặt trời, mặt trăng và các vì sao

Ngày ấy trời và đất gần nhau đến mức giã gạo vướng chày, đẽo cày vướng rìu. Người trần gian không chịu được sự chật trội liền bảo nhau đi chặt cây về làm chày đứng giã đất cho đất thấp xuống, chọc trời cho trời cao lên, làm ăn sinh sống được tự do phóng khoáng không bị vướng víu.

Then không còn được ở gần ngắm đất hàng ngày, nổi cơn tức giận phát khùng bèn thả bảy mặt trời mở bảy đường nắng lửa thiêu chết người trần gian. Người sợ nắng lửa chạy vào trong hang nước ngâm mình thì sống sót. Họ bàn nhau phải diệt bảy mặt trời để cứu người cứu vật không chết cháy thì mới sống được. Một người nói :

-Chúng ta đã dùng chày đứng chọc trời lên đâm đất xuống thì lại dùng chày đứng chọc mặt trời cho vỡ tan chứ sao?!

Thế là họ dàn hàng người đứng trên đỉnh núi chờ bảy mặt trời đến cầm chày chọc vào. Mặt trời như quả bóng lửa trúng chày tung lên va vào nhau nổ ầm ầm vỡ tan tành. Những mảnh vỡ tung tóe đỏ lửa rơi như mưa xuống sông hồ biển tắt ngấm. Những mảnh rơi trên đất bốc lửa khói bay mù mịt. Những mảnh bắn lên cao găm vào da trời thành những vì sao đỏ, sao vàng da cam nhấp nháy tít xa. Duy nhất còn một mặt trời bị trúng chày đau quá khiếp sợ bay vút lên cao sống sót đến ngày nay.

Những người cầm chày chiến đấu bị những mảnh lửa như mưa vào người đều bị bỏng nặng chết, sắp chết. Họ khiêng người trọng thương vào hang nước mát ngâm mình thì thấy giảm đau, ai còn ôm chày hít thở mùi chày thì từ từ trở lại bình thường. Thấy thế, họ lại khiêng những người chết bỏng vào hang ngâm nước mát cho ngửi đầu chày đều sống lại.

Sáu mặt trời phun lửa tan vỡ mà người trần vẫn chưa chết hết, Then càng phát điên quát :

-Bọn người cầm chày chống lại trời chưa chết nóng thì cho chúng chết lạnh! Thiên Lôi! Hãy thả bảy mặt trăng bay sát đất mở bảy đường sáng lạnh mau!

Bảy mặt trăng bay đến đâu khí lạnh tràn ngập đến đấy. Người rét run da tím bầm, liền chạy vào trong hang cạn thật sâu được ấm dần lên, thoát chết. Họ lại bảo nhau cầm chày ra diệt mặt trăng. Họ dàn quân đứng trên đỉnh núi. Bảy mặt trăng bay tới đúng tầm, họ đâm đầu chày vào. Bảy mặt trăng bắn loạn xạ lên cao va nhau vỡ tan tành. Những mảnh vỡ rơi xuống đất xuống nước thành băng tan dần. Những mảnh vút lên cao găm vào da trời thành những vì sao xanh sao trắng lấp lánh li ti. Một mặt trăng không bị va chạm chạy thoát bay vút lên cao như ngày nay.

Những người bị mưa mảnh mặt trăng trúng người rét run chết cứng. Người ta lại khiêng về hang ấm cho ngửi đầu chày đều sống lại.

Người trần gian cầm chày đâm tan mặt trời quen chịu nóng, xuống phương Nam tìm mường ăn mường thành người da đen, da xám, da nâu, da đỏ. Những người cầm chày chọc mặt trăng quen chịu lạnh lên phương Bắc tìm mường ăn mường thành người da vàng da trắng.

Từ ấy trời đất cách xa nhau ngàn vạn ngày chim bay và có bầu trời, đỉnh trời, chân trời, lưng trời, đầu trời cuối đất, có ngày có đêm, có mặt trời, mặt trăng và các vì tinh tú gọi là trời sao muôn hình vạn trang. Người ta có câu : ” Ai rời bỏ tay chày giã gạo chọc trời đâm đất thì người ấy chết.”

Cầm Ngọc Chương kể- Ghi ở mường Lò 1980.

Đàn con của Then được phong thần

Thuở trời và đất còn gần nhau giã gạo vướng chày, đi cày vướng sừng trâu, ngày nào Then cũng ngắm mặt đất thấy người con gái đẹp mà người ta gọi là Bà Đất sinh lòng mê. Then lấy Bà Đất làm vợ đưa lên mường Trời ở phong là Da Náng Then. Hai người sống chăn gối nồng nàn hạnh phúc.

Da Náng Then có chửa sinh ra quả bầu. Từ trong quả bầu có tiếng rì rầm rồi đục lỗ chui ra lần lượt những đứa con, Then làm phép đặt tên phong thần cho chúng. Đứa chui ra đầu tiên là Thần Sấm, đứa thứ hai là Thần Chớp, đứa thứ ba là Thần Dông Bão, đứa thứ tư là Thần Mưa, đứa thứ năm là Thần Lũ Lụt, đứa thứ sáu là Thần Động Đất, đứa thứ bảy là Nữ Thần Cầu Vồng, đứa thứ tám là Thần Nắng, đứa thứ chín là Thần Lửa, đứa thứ mười là Thần Hạn Hán, đứa thứ mười một là Thần Sương, đứa thứ mười hai là Thần Gió, đứa thứ mười ba là Thần Hoàng Trùng, đứa thứ mười bốn là Thần Sinh, đứa thứ mười lăm là Thần Tử, đứa thứ mười sáu là thần Nước, đứa thứ mười bảy là Thần Nông.

Mười bảy đứa con Then giúp Then cai trị trời đất, muôn vật và loài người. Mỗi đứa con một tính một nết một tài năng vừa tương sinh vừa tương khắc nhau, trung thành thực hiện nhiệm vụ của Then giao.

Năm ấy Then tức giận căm ghét loài người tàn sát muôn vật, bắn chim bẫy thú, chặt cây phá rừng, đào núi lấp sông, phóng uế vào không khí đất và nước, lấy chày chọc trời giã đất cho cách xa nhau chín tầng mây. Để hả giận, Then đã mở bảy đường nắng, đóng chín đường mưa cho hạ giới chết hết. Nghe lệnh của Then, Thần Gió thổi đuổi mây vào hang đóng cửa lại. Bầu trời quang quẻ. Thần Nắng dẫn ánh sáng lửa mặt trời thiêu khắp chốn nung nóng mặt đất. Thần Hạn Hán hoành hành ngang dọc tiêu tan hơi nước mất độ ẩm. Thần Hoàng Trùng xuất quân sâu bọ lớn nhỏ gây đại dịch. Sông hồ cạn kiệt. Đồng ruộng nứt nẻ. Cây cỏ chết khô. Thần Lửa phóng hỏa cháy rừng ra tro. Thần Động Đất gây địa chấn lung lay nghiêng ngửa, núi lửa phun trào, sóng thần cuốn phăng lục địa. Muông thú loài người chết khát, chết cháy, chết đói, chết bệnh la liệt, chết động đất không còn một mống. Thần Tử mặc áo quạ bay là là mặt đất giơ lưỡi hái gặt những linh hồn .

Đêm về Thần Sương thương khóc quê ngoại mặt đất anh em họ hàng thân thích chết chóc, nước mắt rơi ướt đầm. Thần Sinh tiếc công gây nuôi vạn vật sinh linh của mình phả hơi sự sống vào nước mắt của Thần Sương rơi đến đâu cây cỏ vạn vật loài người tái sinh đến đấy. Thần Nước cung cấp nước sạch nuôi sống sinh linh. Thần Nông dạy loài người tái sinh trồng cấy chăn nuôi chế biến thức ăn thức mặc. Chẳng bao lâu sự sống lại phồn thịnh như xưa.

Loài người lại tiếp tục ăn muôn loài dần dần dẫn đến tuyệt chủng. Mặt đất ô uế rác bẩn chưa từng có khiến Then trên chín tầng mây cũng ngạt thở. Cây cỏ muông thú kêu cứu dậy trời. Then lại nổi giận lôi đình sai mở chín đường mưa, đóng bảy đường nắng. Thần Sấm Sét ùng oàng long trời chuyển đất. Thần Chớp vung những tia lửa rắn, lửa chạc cày, lửa rễ chùm, lửa hình cầu, sáng lòe kinh khiếp. Thần Dông Bão cuốn mây đen kịt bầu trời, xoáy lốc, nhổ cây, tốc nhà, bay vật. Thần Mưa xối nước như thác đổ xuống mặt đất giặt giũ muôn loài tẩy rửa tanh hôi. Thần Lũ Lụt dâng biển hồ sông suối nước lên cửa Thiên Đình. Muôn vật loài người được tắm sạch nhưng cũng sặc nước chết sạch làm cỗ cho thủy sinh. Thần Tử khoác áo quạ là là bay trước cơn dông giơ lưỡi hái gặt những linh hồn.

Then và Da Náng Then đang hát khắp báo sao và gẩy đàn tính tẩu tình tang thì thấy nước tràn vào nhà, vội vàng mở khóa cửa cho Nữ Thần Cầu Vồng ra làm nhiệm vụ. Nàng vừa khóc thương quê ngoại cùng anh em họ hàng chìm trong nước mưa nước lụt vừa thổi ra hình cầu vồng bảy sắc dựng trước trời. Tức thì Thần Sấm Sét thôi thét gào, Thần Chớp ngừng vung lửa, Thần Mưa bóp cổ rồng ngừng phun. Thần Dông Bão tan biến. Thần Lũ Lụt rút lui về Đại Dương. Then đóng chín đường mưa. Mặt đất trơ đất bùn bãi lầy.

Thần gió thổi se mặt đất mang theo nước mắt của Thần Sương khóc hạ giới và những hạt sự sống của Thần Sinh gieo khắp nơi. Hạt gieo đến đâu muôn vật và loài người lại tái sinh đến đấy. Cây cỏ, muông thú và con người được thần Nước cấp dưỡng vừa đủ lại đông đàn dài lũ. Thần Nông lại giáng hạ dạy bảo loài người làm nghề canh cửi cấy lúa nuôi trâu voi dệt thổ cẩm. Mặt đất luân hồi xanh.

Từ ấy cái chết và cái sống trên mặt đất do Then và đàn con Then được phong Thần định đoạt diễn ra theo chu kì nắng mưa, hạn lụt. Dần dần con người hiểu ra rằng phải biết thân thiện với muôn loài, giữ cân bằng trời đất, thì Then không nổi giận, mới được mưa thuận gió hòa, sống yên ổn.

Lường Thanh Xuân kể- Ghi ở Trường TNDT Lũng Mu Mường Lò 1980

Ngày ấy, trời và đất chưa xa nhau như bây giờ. Người đất vẫn thường bắc thang lên hỏi ông Then mọi việc.

Cuộc sống đang yên vui bất ngờ trời bão lớn mưa to. Mặt đất ngập lụt mênh mông. Kẻ chết làm mồi cho cá. Người sống lam lũ cực khổ trong bùn lầy nước đọng. Không chịu được người dùng hai cây tre hóp dài thẳng vút làm thang lên hỏi ông Then. Then cử vợ chồng ông bà Ải Lậc Cậc xuống hạ giới giúp người. Ông bà Ải Lậc Cậc là người khổng lồ như ông Đùng bà Đà của người Việt-Mường. Ông Ải Lậc Cậc vung tay đá chân san bạt đồi núi thành những cánh đồng bồn địa và cao nguyên bằng phẳng khu vực Nam Vân Nam, Bắc Đông Dương như nhất Thanh nhị Lò tam Than tứ Tắc và cao nguyên Mộc Châu, Tà Pình, Bình Lư. Bà Ải Lậc Cậc dùng cây gỗ lớn cứng như sắt dũi đất thành chín con sông: nậm Công (Mê Công), nậm Ma (sông Mã), nậm Ta (sông Đà), nậm Tao (sông Thao), nậm U, nậm Nua, nậm Na, sông Lan Thương, sông Irôoati (Vân Nam) và nhiều suối như nậm Rốm, nậm Tung, nậm Thia, Nậm Luông, nậm Thà, nậm Thi… Ông bà dạy bảo con cháu đắp bờ ngang bờ dọc, làm mương, phai, cọn tưới nước, làm ruộng bậc thang, ruộng lòng chảo, cấy lúa nương lúa nước, gạo đỏ gạo trắng, gạo nếp nuôi người gạo tẻ nuôi lợn nổi tiếng và xây dựng nên các mường Ôm, mường Ai, mường Lò, mường Hỏ, mường Bo tè, mường Óc, mường Ác, mường La, mường Tum Hoàng, mường Then, mường Bum, mường Luân, mường Tè…

Một hôm ông bà đang dạy dân cày bừa cấy gặt ở cánh đồng mường Lò thứ hai ( Nghĩa Lộ ) thì một con voi khổng lồ từ trên trời sổng chuồng xuống đất giẫm đạp giày xéo phá hoại ruộng mạ ruộng lúa. Ông bà bới đất đá ném chết con voi hóa thành núi Pú Trạng ngày nay. Đất đá dính ở kẽ ngón chân ngón tay, trong móng , ông bà rũ bỏ vung ra bốn phía thành đồi núi trùng điệp như bát úp miền Tây Bắc: Thanh Hóa, Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái.

Một hôm khác, ông bà đi xúc cá. Ông ở đầu nguồn suối dồn cá xuống. Bà ở cuối dòng suối hứng vạt váy được đầy cá, bà hất đổ lên bốn cánh đồng lớn Thanh Lò Than Tắc. Vì thế trước đây những cánh đồng này nhiều cá lắm. Một lần ông khùa chân vào một ghềnh khua cá, dính một cái dằm , rút ra được một cây gỗ lớn, đục đẽo được cái thuyền độc mộc bảy tay trèo mười tay lái . Chỗ ông khùa chân dính dằm ngày nay là hang Thẩm Lé Mường Lò Văn Chấn Yên Bái.

Thuở ấy cây lúa nương lúa nước của ông bà chăm bón bông to bằng cái đuôi voi, bông nhỏ bằng cái đuôi trâu, hạt to bằng cái đầu voi, hạt nhỏ bằng cái đầu trâu. Một hạt bổ ra nấu cơm lam hay gói bánh trăm người ăn no.

Đời sống của dân đang sung túc bình yên thì một con voi khổng lồ khác có tên là Ải Trạng Noi từ nhà Then xuống đòi nợ ông bà Ải Lậc Cậc. Ông bà tức bằng quả núi đá quát :

-Ta không vay , ta không trả gì hết!

Ải Trạng Noi nhảy bổ vào đánh ông bà trước, buộc ông bà phải đánh trả đũa tự vệ. Hai bên đánh nhau thật dữ dội. Chỗ đánh nhau quần đảo đất lồi, lõm xuống bây giờ là lòng chảo Mường Lò Yên Bái. Cuộc chiến không phân thắng bại, họ kéo nhau lên Trời yêu cầu Then phân sử. Trước Then, họ vẫn cãi nhau không ngớt. Then nổi giận bằng vòm trời, tóm cổ cả hai nhốt vào giỏ trời. Bà Ải Lậc Cậc cũng theo chồng lên Then hầu kiện. Từ đó ông bà không trở lại hạ giới nữa.

Xung quanh nơi hai Ải đánh nhau nổi lên những dẫy núi bao bọc Mường Lò chạy đến Trạm Tấu Yên Bái, Phù Yên Sơn La và các nơi khác. Ông bà Ải Lậc Cậc đi chưa kịp dạy bảo dân cách làm để có hạt lúa to như đầu voi đầu trâu. Vì thế ngày nay hạt lúa vẫn chỉ bé bằng bụng con ong mật mà thôi.

Đinh Văn Liễn kể- Ghi ở Trường TNDT Lũng Mu Mường Lò Yên Bái 1980

Thuở ấy, ông bà Ải Lậc Cậc đang cai quản trần gian, con người con vật đều khổng lồ. Cây cao đâm thủng cả trời. Người đi va đầu vào trời vỡ lở ầm ầm. Then tức giận bằng ngàn con voi điên, ra lệnh bầu trời rút lên thật cao, cho cây không đâm thủng cho đầu người không đụng tới. Then dùng sức lửa để hun chết người vật khổng lồ hạ giới, một ngày sai bảy mặt trời mở bảy đường nắng cùng bay qua thật thấp.

Lúc ấy ông bà Ải Lậc Cậc đang cùng con cháu hội xòe ở cánh đồng lòng chảo sông Nậm Rốm, đã sai một trăm thanh niên trai tráng khổng lồ đứng lên vai nhau ở bảy quả đồi cao quyết tử cho loài người quyết sinh, bắt từng mặt trời rực lửa ném xuống biển. Thế là sáu mặt trời bị bắt quăng xuống biển Đông, nước sôi lên sóng thần, khói mù trời, tắt ngấm. Một mặt trời trốn thoát bay vút lên cao như ngày nay.

Then sợ quá, vội vàng giáng trần, đàm phán với ông bà Ải Lậc Cậc tại sân hội xòe. Then nói :

-Trẫm giận dữ nên mất khôn. Trẫm sinh ra loài người và muôn vật mà lại muốn thiêu hủy đi thì nhẫn tâm quá. Trẫm xin lỗi đại gia đình Ải Lậc Cậc, bỏ qua cho trẫm, từ nay đừng nối người làm thang lên bắt mặt trời của trẫm và phá thiên cung. Trẫm cho phép kéo dài thời hạn sống của người khổng lồ vật khổng lồ thêm ngàn năm nữa.

-Then đã biết sai lầm và sửa sai lầm thì người và muôn vật hạ giới cũng không cố chấp nữa! Nhã ý tốt đẹp của Bệ hạ giành cho người vật hạ giới trường thọ nghìn năm xin đa tạ!

Nói rồi, ông bà Ải Lậc Cậc dẫn Then tham quan cái nỏ khổng lồ, dây nỏ bằng cái cột nhà, cánh nỏ dài ngàn sải tay bằng gỗ lim, thân nỏ chục người ôm dài ngàn sải bằng gỗ sến, mũi tên bằng cột nhà dài trăm sải đầu bịt vàng. Ông bà Ải Lậc Cậc nói :

-Đây là cái nỏ của người khổng lồ dùng để bắn mặt trời và các vì sao nếu Then còn ném chúng xuống trần gian gây thảm họa !

– Trẫm hiểu! Trẫm không lặp lại chuyện tức giận ấy nữa! Hạ giới cứ vui hưởng thái bình!

Ông bà Ải Lậc Cậc lại đưa Then đi thăm cánh đồng mường Thanh lúa tốt không kém lúa Thần Nông trên trời. Hạt lúa nếp to như đầu voi. Hạt lúa tẻ như đầu trâu. Then bảo:

-Người khổng lồ phải được ăn những hạt gạo to như thuyền thoi. Mùa gặt tự bò về nhà. Cây mía phải là những ống đựng nước ngọt không phải nhai hít nước nhả bã.

Nói rồi Then đọc thần chú cho chúng trở thành như thế ! Từ ấy cánh đồng mường Thanh biến thành cánh đồng mường trời cung cấp hạt lúa giống cây giống khổng lồ hơn nữa cho cả trần gian các mường.

Để ghi nhớ cuộc đàm phán hòa bình giữa trời và đất, tri ân với Then, ông bà Ải Lậc Cậc đổi tên mường Thanh thành mường Then lưu truyền đến ngày nay.

Cầm Ngọc Tú kể- Ghi ở Mường Lò 1980.

Thời đại Ải Lậc Cậc cây cỏ con vật con người đều khổng lồ. Giữa cánh đồng mường Then mọc lên một cây đa to lớn chưa từng có. Một người khổng lồ đi quanh gốc một năm trời mới được một vòng. Tán cao đụng trời che kín trần gian. Ánh sáng mặt trời mặt trăng không chiếu tới. Nắng chẳng đến mưa chẳng về. Mặt đất tối như bưng. Cây cỏ con người con vật dưới bóng cây đa khổng lồ không sống nổi, có nguy cơ chết hết.

Ông bà Ải Lậc Cậc cùng con cháu vác rìu ra chặt gốc đa trong một ngày không xong, sau một đêm thân gốc nó lại mọc như cũ. Ông bà Ải Lậc Cậc nghĩ ra kế cùng con cháu thay nhau chặt một phía liên tục suốt ngày đêm cho nó mọc không kịp và dùng dây chão buộc cành cho hàng vạn trâu voi kéo về phía chặt thì thế nào nó cũng đổ kềnh. Khi chặt được chín phần còn một phần, mọi người chạy xa gốc về phía lưng nó và hai phía sườn thì ra lệnh trâu voi kéo miết đi. Cây đa khổng lồ gẫy một tiếng “cấc” vang vạn lần tiếng sét kinh hoàng. Cây đa đổ xuống ào ào như vạn lần bão gầm. Tán đa cành to cành nhỏ giáng xuống đánh rầm một tiếng như trời sập. Cây cỏ con người con vật dưới tán của nó bị đè nát chết hết, kể cả voi trâu khổng lồ khi kéo nó đổ cũng không chạy thoát. Chỗ thân cây đa đổ lõm xuống sau khi mục nát trở thành một dòng sông tương truyền là nậm Ma, chỗ gốc thối rữa đi trở thành lòng chảo mường Thanh bây giờ. Cành nó giáng xuống núi đồi làm núi đồi võng xuống thành khe thành chóp nhấp nhô. Rễ nó tiêu biến thành suối và sông ngầm hang động nước khắp nơi.

Cây Đa mường Then chặt đổ, mặt trời mặt trăng lại chiếu sáng mặt đất , mưa nắng trở lại như xưa, cây cỏ muôn loài tái sinh, nhưng kỳ thay không còn khổng lồ như trước nữa. Số người vật khổng lồ ở phía lưng cây đa ấy sống sót rất ít. Sau khi ông bà Ải Lậc Cậc về Then kiện Ải Trạng Noi thì họ cũng biến mất trên trần gian. Thời đại khổng lồ chấm dứt.

Cầm Ngọc Tú kể- Ghi ở Mường Lò 1980

Ải Trạng Noi đánh nhau với ông bà Ải Lậc Cậc tàn phá hết các mường, con người con vật chết sạch. Ông bà Ải Lậc Cậc về trời kiện Ải Trạng Noi, không về trần gian nữa.

Then thả xuống trần gian chàng Tạo Cập và nàng Ý Kè làm vợ chồng để sinh ra kiếp người mới.

Tạo Cập Ý Kè lấy mường Then nay là mường Thanh làm đại bản doanh. Hai người đem hạt giống con giống từ trời xuống, nhờ gió Đông gió Tây và chín ngọn nước gieo hạt cỏ cây, lúa, ngô, đậu, khoai, bầu, bí và con giống muông thú đến khắp các mường. Chẳng bao lâu muôn vật lại phục sinh như xưa.

Tạo Cập Ý Kè cặp kè nhau như đôi uyên ương vui tuần trăng mật trong nhà sàn mười gian bốn mái vòm rùa lợp vàng tấm, hai thang sàn bằng vàng, một thang cho ông đi, một thang cho bà đi, do Rùa Vàng thiết kế và xây dựng, tọa lạc tại mường Then. Từ ấy người Thái ở nhà sàn mái khum mai rùa, lên sàn có hai thang, mái lợp cỏ tranh màu vàng đông ấm hè mát. Tại đây, Tạo Cập Ý Kè sinh một bọc trăm con 50 trai 50 gái. Vì là giống người Trời nên không phải bú mớm, chỉ ăn xôi nếp trong chõ gỗ trên nồi đồng dưới bếp lửa mà lớn nhanh như thổi, trí khôn như thần. Tạo Cập dạy 50 con trai làm tạo, biết quản lý mường, biết nung đúc công cụ vũ khí, luyện quân giữ mường, làm canh nông trồng trọt chăn nuôi. Ý Kè dạy 50 con gái biết lấy vỏ cây quả bông, nuôi tằm ăn tang kéo sợi, dệt vải, dệt thổ cẩm, hát khắp, đánh đàn tính tẩu, múa xòe, múa sạp, múa nón.

Trăm con trưởng thành, anh em thích nhau cho lập vợ chồng, rồi cho ra ở riêng. Mỗi cặp được cấp hai con voi, vốn liếng, đồ tư trang, bè mảng đi xây dựng lại các mường cũ ( Mường Ôm, mường Ai, mường Lò, mường Bo tè, mường Ác, mường Óc, mường Tè…) và tìm ăn các mường mới, thi đua mở đất mở nước trên khắp trần gian. Những cặp thích ăn cơm gạo nếp lúa nước với cá, đóng bè xuôi nậm Công sinh ra người Thái, người Lự, người Lào, người Khơ Me, người Xiêm La; xuôi theo nậm Ma , nậm Ta, nậm Tao xuống biển Đông thích ăn cơm gạo tẻ sinh ra người Kinh. Những cặp neo bè lại dọc các nậm hoặc chẳng cho voi đi nữa ở lại đồi núi lập mường ăn gạo nương gạo nước, măng nứa, quả chám, thịt hươu sinh ra người Xá ( Khơ Mú, Kháng, La chí, La Ha, Sinh Mun…) , người Mường, người Tày. Những cặp cưỡi voi đi ngược nguồn nậm Ma, nậm Nưa, nậm Công, nậm Na, Nậm Ta, nậm Tao sinh ra các tộc người Thái Hồng Đức, Thái Bạch man, Thái Thoán ô man, người Tây Di, Bắc Di, Nam Di, Đông Di. Cặp voi đến tận Tây Tạng sinh ra người Tạng người Miến. Cặp voi đến tận sông Trường Giang, núi Ngũ Lĩnh sinh ra người Nam man Thái Lự Choang, Giáy, Cao Lan, Tày Nùng Choang, Bố Y, Bách Việt, Miêu, Dao… Các cặp cưỡi voi đến củng cố các mường cũ tái sinh các họ Thái trắng Thái đen Lò, Quảng, Tông, Lường, Khun, Cầm… Cặp ở lại mường Then với cha Tạo Cập mẹ Ý Kè là tổ tiên người Lào , Lự, Thái Trắng Điện Biên Lai Châu Phông Sa lỳ và Mộc Châu .

Do đó các tộc người tộc họ tuy ở các mường đất khác nhau, nói tiếng Tày – Thái (Tày , Thái , Nùng, Giáy, Cao Lan, Lào, Lự, Bố Y), tiếng Kinh-Mường ( Kinh Keo , Mường), tiếng Môn Khơ Me-Xá (Kháng, Khơ Mú, La chí, La Ha, Sinh Mun), tiếng Tạng- Miến (Hà Nhì, La Hủ, Phù Lá, Lô Lô, Cống , Si La), tiếng Miêu- Dao (Mông, Dao, Pà Thén ) dù có khác nhau nhưng cùng là anh em máu đỏ da vàng con cháu ông bà người trời Tạo Cập Ý Kè sinh ra ở mường Then nước Văn Lang nghìn xưa.

Cầm Ngọc Thi kể- Ghi ở Trường TNDT Lũng Mu Mường Lò Nghĩa Lộ 1980

Chim Cú ăn mặt Trời ăn mặt Trăng

Mặt Trời mặt Trăng thay nhau chiếu sáng mặt đất cho muôn vật và con người sinh sôi nẩy nở.

Mặt Trời chiếu sáng ban ngày cho cây cỏ xanh tươi, con vật con người kiếm ăn dễ dàng, ban đêm đi ngủ dưỡng sức.

Mặt Trăng chiếu sáng ban đêm cho cây cỏ , con vật, con người làm ăn ban ngày mệt nhọc được mát mẻ ngon giấc.

Một số loài vật không ưa Mặt Trời chói lòa nóng bức, nên ban ngày tìm nơi dâm mát kín đáo hang hốc nằm ngủ, ban đêm Trăng trong gió mát mới đi tìm ăn. Một số loài vật làm ăn vụng trộm sợ ban ngày bại lộ phải đêm tối mới hoạt động.

Mặt Trời Mặt Trăng thay nhau chiếu sáng hết ngày qua đêm không được bình thường cho nên có khi ngày rất dài và đêm rất ngắn, ngược lại có khi ngày rất ngắn và đêm rất dài, có khi mặt trời làm nắng rất to, có khi mặt trăng làm sáng rất tỏ, lợi cho con vật này, lại hại cho con vật khác.

Những con vật ban ngày chói mắt thành mù, ban đêm nhờ bóng tối thì mắt sáng hơn đèn như Hổ, Mèo, Cầy, Cáo, Chuột, Dơi, chim Vạc, chim Cú… rất ghét Mặt Trời và cũng chẳng ưa Mặt Trăng vì cản trở sự săn bắt của chúng.

Năm ấy ngày quá dài, đêm quá ngắn và Trăng tỏ khiến các con vật làm ăn ban đêm mất mùa to. Hươu nai nhìn rõ bóng Hổ mà chạy biến. Chuột nhìn rõ chim Cú mà trốn tránh ngay. Cá nhìn thấy Vạc vung mỏ thì lặn càng nhanh. Thế là những con vật Hổ, Mèo, Cầy, Cáo, Chuột, Dơi, Vạc, Cú… đói bụng, mở hội nghị bàn bạc săn bắt ăn Mặt Trời, Mặt Trăng để báo thù. Hổ Mèo Cầy Cáo Chuột có sức mạnh nhưng lại không có cánh bay lên trời. Hổ nói:

-À uôm! Ta mà biết bay thì vồ ngay con thỏ cung trăng nhá nát!

-Ta có cánh thì xé xác con Ác Kim Ô lập tức!

Dơi Vạc Cú có cánh nhưng Dơi Vạc lại thiếu dũng cảm, nên hội nghị cử Cú Mèo Cú Lợn đi ăn Mặt Trời Mặt Trăng.

Thế là Cú Mèo Cú Lợn thay phiên nhau bay lên trời săn lùng bắt Mặt Trời Mặt Trăng để ăn thịt. Cú Mèo bé nhỏ quen bắt chuột nhỏ, nay bay lên trời bắt được Mặt Trời, Mặt Trăng nuốt không nổi, nên khoang miệng chỉ ngậm được một phần nhỏ hay bán phần . Vì thế Mặt Trời Mặt Trăng chỉ khuyết đen còn đa phần vẫn sáng. Chỉ khi Cú Lợn to lớn bắt được Mặt Trời Mặt Trăng mới nuốt lọt vào khoang miệng nên Mặt Trời Mặt Trăng đen toàn phần chỉ phát tán hoa ra ngoài. Mỗi lần Cú Mèo Cú Lợn ăn Mặt Trời Mặt Trăng thì những con vật làm ăn ban đêm reo hò nhảy múa làm cỗ ăn mừng. Ngược lại cây cỏ con vật con người làm ăn ban ngày thì lo ngại Cú nuốt mất Mặt Trời Mặt Trăng sẽ tắt nguồn sáng bèn kêu la ầm ĩ. Nhất là con người mang cung nỏ súng ống bắn Cú và khua chiêng gõ trống ầm ầm làm cho Cú Mèo Cú Lợn hoảng sợ vội vàng nhả Mặt Trời Mặt Trăng ra, lại sáng giữa trời.

Do phải săn đuổi đường xa, nên sau nhiều năm, Cú Mèo Cú Lợn mới đến chu kì bắt được và ăn Mặt Trời Mặt Trăng.

Từ ấy mỗi lần có nhật thực nguyệt thực khuyết phần hay bán phần người ta bảo cú mèo ăn mặt trời ăn mặt trăng rồi, khi có nhật thực nguyệt thực toàn phần người ta bảo cú lợn ăn mặt trời ăn mặt trăng rồi. Lúc nhật thực nguyệt thực tan người ta lại bảo chim cú nhả mặt trời mặt trăng ra rồi.

Cầm Ngọc Thi kể- Ghi ở Mường Lò 1980

Thời đại ông bà Ải Lậc Cậc, con người con vật đều khổng lồ. Thời ấy con người con vật chưa biết hòa bình chung sống mà ăn thịt lẫn nhau.

Một con Diều Hâu khổng lồ thành tinh. Then cho nó ăn thịt chim nhỏ, chuột sóc phá hoại mùa màng. Then cho người ăn hoa quả củ hạt. Nhưng người cậy có ông bà Ải Lậc Cậc ưu ái bảo lãnh, nên ăn thịt tất cả muôn loài cây cỏ, cá mú, chim muông, thú vật không tha một loài nào. Then nổi giận lôi đình sai con Diều Hâu Tinh được phép ăn thịt cả người và thú nuôi của người như voi trâu bò ngựa dê…Do đó sẩy ra cuộc chiến tranh giữa người và Diều Hâu Tinh.

Diều Hâu Tinh thân hình to như quả núi. Hai cánh vỗ thành bão lốc bay cả người từ núi này sang đồng kia. Mỏ nó mổ một chưởng đớp cả đàn voi vào diều. Người khổng lồ không vũ khí, không nơi ẩn trốn, một cú đớp của nó nuốt hàng trăm người. Hai bàn chân móng sắc quắp cả một đàn trâu bò và đoàn người bay lên không trung rồi thả xuống đất cho tan xương nát thịt. Người và vật nuôi phải chạy trốn vào hang đá và đào hầm ẩn náu ban ngày, ban đêm mới ra làm ăn thật khổ sở.

Loài người khổng lồ chưa có cách gì diệt Diều Hâu Tinh đã cầu cứu ông bà Ải Lậc Cậc. Ông bà Ải Lậc Cậc nói :

-Diều Hâu Tinh là con chim ăn thịt khổng lồ của Then khó trị lắm. Các con phải biết đoàn kết hy sinh dũng cảm và khôn khéo mới giết được nó. Các con phải có vũ khí là cây nỏ cây cung mũi tên khổng lồ bịt sắt nhọn hoắt và những cây giáo khổng lồ và dài. Hàng vạn người dàn trận tập trung bắn đâm nó. Nhử nó vào nơi hẻm mắc kẹt mà đánh mới thắng.

Loài người làm theo lời dạy của ông bà Ải Lậc Cậc. Loài người cử một thủ lĩnh tài ba chỉ huy, chọn một vạn tay cung nỏ, một vạn tay giáo và một ngàn người to béo làm mồi nhử Diều Hâu Tinh vào khe núi mà nó chui không lọt để diệt.

Đêm hôm ấy hai vạn chiến sỹ cung nỏ giáo dài ngụy trang cây cỏ nằm ở hai đầu khe núi hẹp. Sáng ra người chỉ huy đứng trên đỉnh núi cao phát hiện Diều Hâu Tinh bay tuần tiễu trên bầu trời liền thổi một tiếng tù và thì một ngàn người tay không từ cửa núi xông ra khiêu khích. Diều Hâu Tinh phát hiện tức thời sà xuống mỏ mổ và chân thò vuốt quắp thì đoàn người chạy vào trong khe núi cho nó đuổi theo. Vì mê mải tham mồi nhử, Diều Hâu Tinh không chui lọt mắc kẹt giữa hai quả núi, tiến thoái lưỡng nan. Người chỉ huy thổi một tiếng tù và tiếp theo, tức thì hai vạn chiến sỹ cung nỏ giáo dài cùng bắn và đâm vào con chim ác tới tấp. Đôi cánh nó không vỗ được. Mỏ xỉa chân quắp được một số người mồi hy sinh. Nhưng toàn thân nó thì chi chít những mũi tên cắm phập và giáo đâm ngập cán. Máu nó tung tóe đỏ lòm tuôn như thác. Hai vạn chiến sỹ tắm máu kẻ thù. Sau một ngày Diều Hâu Tinh giẫy đạp rung trời chuyển đất thì nó chết cứng. Lũ côn trùng khổng lồ bâu đen kịt xơi thịt và đẻ trứng. Mấy giờ sau ròi bọ nở làm cỗ xơi sạch trơn Diều Hâu Tinh để lại bộ xương khổng lồ biến thành đá.

Nghe tin Diều Hâu Tinh bị diệt, Then tức điên lại sai Ải Trạng Noi giáng trần đánh nhau với ông bà Ải Lậc Câc, làm cho thời đại khổng lồ đi vào quá vãng.

Cầm Ngọc Thi kể -Ghi ở Mường Lò 1980

Bản kia có chàng mồ côi ở một mình trong một túp lều cỏ gianh. Hàng ngày chàng ra suối câu cá kiếm sống. Chỗ chàng ngồi câu là một phiến đá lâu ngày bị lõm xuống và in vết hai bàn chân.

Một hôm chàng ngồi buông cần từ sáng tinh mơ đến chiều tà không một con cá nào cắn câu. Chàng định trở về nhưng lại nấn ná ngồi câu thêm chút thời gian nữa xem sao? Bỗng phao câu chìm, chàng vung cần lên được một con rùa màu vàng bằng cái bát bỏ vào giỏ mang về nhà. Đói bụng chẳng có gì ăn, chàng nói một mình :

-Hay là ta nướng con rùa này làm bữa vậy!

Từ trong giỏ phát ra tiếng nói :

-Ối ối! Xin chàng đừng nướng tôi! Tôi là cháu của cụ Rùa Vàng đã xây nhà sàn vàng bốn mái rùa cho ông bà Tạo Cập Ý Kè ở mường Then ngầy xưa ấy. Cụ tôi cũng giúp An Dương Vương xây thành Cổ Loa theo kiến trúc quân sự Thái viềng chiềng và hiến vuốt rùa làm lẫy nỏ thần phá giặc Triệu Đà giữ thành. Tôi được cụ truyền cho nhiều phép mầu và bảo tôi cắn câu của chàng để giúp chàng mọi việc cần thiết . Nếu chàng cần một bữa ăn khỏi đói thì tôi giúp ngay bây giờ! Nhưng chàng hãy thả tôi ra thì mới có điều kiện làm được cơm canh. Tôi không chạy trốn đâu xin chàng đừng sợ.

-Nếu thật như thế thì ta không ăn thịt rùa vàng nữa!

Nói rồi chàng thả rùa vàng ra. Rùa bảo :

-Chàng hãy nhắm mắt lại!Khi tôi bảo mở mắt ra thì sẽ có một mâm cỗ ăn ngay!

Chàng làm theo. Được một lát thì rùa vàng xít xoa nói :

-Cơm nước đã xong. Xin mời chàng xơi !

Chàng mở mắt ra thì thấy có xôi nếp một đĩa lớn và một con cá sỉnh nướng thơm phức với bột chấm chéo mặn cay chua ngọt. Chàng sáng mắt lên, ngỡ là mơ, chàng nói : ” Cảm ơn rùa vàng!” rồi ngồi véo xôi ăn rất ngon miệng.

Ăn xong chàng kể cuộc đời côi cút cơ cực từ khi bảy tuổi đến nay cho rùa nghe. Rùa nói :

-Chính vì thế tôi sẽ giúp chàng được đền bù xứng đáng có hạnh phúc về sau. Bây giờ chàng hãy ngủ thật ngon. Sáng mai tỉnh dậy sẽ biết khổ hay sướng?

Quả nhiên mặt trời lên, chàng thức dậy thấy mình không nằm trong lều cỏ mà trên sập gỗ lát bóng lộn giữa ngôi nhà sàn bốn mái rùa rộng lớn bằng ngói gỗ pơ mu, hai thang sàn bằng gỗ đinh, cột xà kèo đòn tay sàn đều bằng tứ thiết đánh bóng, với đồ đạc tiện nghi không thiếu thứ gì, nhà tạo mường cũng không bằng. Nhìn ra thấy vườn ruộng xanh tốt mênh mông, chuồng trại nuôi đầy cầm thú, người lao động đang làm việc tấp nập. Chàng ngơ ngác toan bỏ chạy đi thì rùa vàng nói :

-Cụ tôi ban cho chàng cơ ngơi này đó. Từ nay chàng là ông chủ. Chàng chỉ huy mọi người giúp việc làm ăn sung túc bằng nghề trồng trọt chăn nuôi không phải câu cá làm tổn hại sinh mạng thần dân thủy phủ nữa. Chàng có ưng không? Chàng còn muốn gì nữa thì hãy bảo tôi!

Chàng chưa hết run vì sung sướng nói :

-Ta cảm ơn cụ Rùa Vàng và nhà ngươi cho ta đổi đời rồi! Với gia sản như thế này thì ta đã mãn nguyện lắm rồi. Ta chỉ mơ ước có một người bạn đời trăm năm chung thủy sinh cho ta những đứa con ngoan hiếu học. Gia cảnh của ta được bình yên không bị thiên tai giặc giã ma quỉ xâm hại. Ta sống những ngày tới có ý nghĩa tốt đẹp hơn! Ta muốn rùa vàng ở cùng ta trọn đời.

-Những mong ước của chàng đơn giản như vậy ta sẽ giúp được!

Hôm sau chàng ăn mặc sang trọng để rùa vàng trong túi ra chợ. Chàng trông thấy năm cô gái xinh đẹp mặc áo cỏm trắng, váy đen, đầu đội khăn piêu, mỗi cô thắt một loại thắt lưng màu hồng, xanh, gụ, vàng, tím. Cô nào cũng đeo dây xà tích duyên dáng đáng yêu quá. Chàng nói thầm với Rùa Vàng:

– Ta chọn cô gái thắt lưng hồng làm vợ được không?

– Không được! Cô ấy mệnh bạc!

– Ta chọn cô gái thắt lưng xanh được không?

– Không được! Cô ấy chỉ thích của cải nhà chồng mà không thích chồng.

– Ta chọn cô gái thắt lưng gụ được không?

– Cô ấy chỉ hay lam hay làm về sau thiếu nữ tính!.

– Thế thì ta chọn cô thắt lưng tím vậy ?

– Được đấy! Cô ấy đẹp người đẹp nết có thủy chung với chồng.

Thế là chàng nhờ bà mờ làm mối lấy được cô gái thắt lưng tím về làm vợ cùng nhau quản lý gia đình trăm năm trọn vẹn hạnh phúc.

Năm ấy vừa sang , rùa vàng bảo:

-Trời sắp hạn rồi lụt to! Muốn mùa màng không mất thì phải chống hạn chống lụt. Chàng cho đắp phai đào mương và làm cọn dẫn thủy nhập điền, đắp bờ cao ngăn nước lũ vào ruộng.

Chàng nghe theo đã vận động dân bản cùng làm phòng chống hạn lụt kết quả tốt nên nhà mình nhà người đều được mùa. Dân các bản khác chưa biết nên lâm nạn đói. Vợ chồng chàng mồ côi đem lúa bắp bán cho nhà giầu, phát chẩn cứu đói cho nhà nghèo các bản mất mùa, do đó không ai bị chết do thiếu cơm cháo.

Một hôm Rùa Vàng bảo chàng:

-Cướp đêm là giặc cướp ngày là quan. Hãy xây dựng gia binh phòng ngừa giữ an ninh gia đình.

Vợ chồng chàng liền tổ chức đơn vị tự vệ gia và tổ tình báo gia. Chẳng bao lâu sau, thấy gia đình chàng mồ côi giầu sang phú quí hơn cả nhà quan, tạo mường ghen ăn ghét ở, cho người đem thuốc phiện quốc cấm ban đêm lẻn vào để trong kho lúa để làm hại. Nhóm gia binh canh gác đã bắt được tội phạm gắp lửa bỏ tay người, nộp lên quan chi châu. Thế là gia đình chàng mồ côi thoát họa. Tạo mường bị cách chức và bị phạt vạ.

Hết dương loạn đến âm loạn. Rùa vàng gọi vợ chồng chàng mồ côi bảo :

-Ma quỉ đang sổng chuồng làm hại người trần. Hãy lập miếu thờ Thổ Công, Thần linh bản xứ, Thần Long, Thần Mạch, Thần Táo quân và lập bát nhang thờ Gia Tiên để nhờ lực lượng tâm linh phù trợ xua đuổi ma quỉ ra khỏi khu vực để giữ bình yên cho người và vật trong gia đình.

Vợ chồng chàng mồ côi nghe theo nên trong nhà không bị ma làm quỉ ám, mọi người bình yên vô sự. Những người khác không tín ngưỡng cho là mê tín dị đoan thì lâm bệnh tâm linh ma làm, quỉ ám, lệch mồm lác mắt, mặt quay đằng sau, gáy quay đằng trước, mắt nhìn dây thừng ra rắn, nhìn người ra lợn rừng, bốc đá bỏ mồm nhá lốc cốc, nhảy xà ngang sang xà dọc, đàn bà vắt vẻo trên khau cút nóc nhà… Lúc bấy giờ mới tin có tâm linh quỉ phạt ma hành phải nhờ thầy cúng mới được bình thân.

Năm vợ chồng chàng mồ côi tròn trăm tuổi về Then thì Rùa Vàng về Thủy Phủ với cụ Tổ. Con trai con gái chàng Mồ Côi nhớ ơn Rùa Vàng đã cho tạc tượng đá và lập miếu thờ. Trong nhà như vẫn có Rùa Vàng giữ an ninh cho gia đình trừ được ma quỉ dương gian và âm gian.

Từ ấy người Thái Tây Bắc có tục thờ Rùa Vàng.

Cầm Ngọc Thi kể- Ghi ở Mường Lò 1980

Sự tích lễ hội Xa nặm phôn (cầu mưa)

Năm ấy trời làm đại hạn. Ngày nắng như lửa đốt. Đêm trăng quầng vàng quầng đỏ. Đồng ruộng nứt nẻ. Cây rừng cây trồng khô héo. Con người con vật có nguy cơ chết đói chết khát.

Tạo bản nọ sắm lễ cúng miếu thờ Rùa Vàng, lầm rầm khấn :

-Không biết trên trời có chuyện gì mà Then để Thần Nắng và Thần Hạn Hán hoành hoành dữ quá. Thờì vụ không gieo cấy được. Mùa màng thất bát. Con có lòng thành cúi xin Rùa Vàng can thiệp với Then cho Thần Mưa đem Rồng phun nước trời xuống để thiên hạ có nước làm ăn, cứu người cứu vật thoát nạn đói khát. Xin đa tạ!

-Để Then cho nước làm ăn thì tạo bản phải tổ chức lễ hội Xa nặm phôn cầu mưa. Khi nào thấy mặt trăng có quầng vàng quầng đỏ trong năm thì hãy bảo dân bản làm thế này… thế này…Nguyện vọng của cả cộng đồng dân bản mới thỉnh đến Then thì ngài mới cho Thần Mưa làm việc.

Nói rồi Rùa Vàng thôi hiện hình. Tạo bản làm theo. Tạo tập họp trai thanh nữ tú đẹp người đẹp nết, chưa vợ chưa chồng, cha mẹ song toàn, có đức tin lập thành một đoàn ăn mặc đẹp, mang theo thúng, sọt, dậu, ông bắng, khoác áo tơi đội nón tát đi theo nhịp trống chiêng mõ đến những gia đình có người già uy tín đức độ con đàn cháu đống trong bản. Khi đến sân đoàn trai gái gõ ống bắng thúng dậu đồng thanh hát:

Nghe tiếng cầu mưa, ông bà già bưng ra thúng hạt bông hạt gạo hạt ngô vung vãi làm mưa khắp đoàn người. Những hạt bông hạt gạo hạt ngô rơi vào thúng vào dậu lộp bộp. Đoàn người nhặt hết những hạt như mưa vào các đồ đựng rồi kéo nhau lên nhà sàn. Các con cháu của ông bà già lấy ống bắng nước vẩy ướt khắp mọi người và hát đáp lại :

Cứ như thế đoàn người đi đến nhà này nhà khác làm sôi động bản mường. Những “lộc mưa trời” nhận được của các nhà: gạo ngô hoa quả rượu… đem về nhà tạo. Tạo cho dùng vào việc làm cỗ cúng Then cầu mưa rồi mời các thành viên dự lễ hội Xa nặm phôn ( cầu mưa) dự tiệc.

Việc làm đó đã khuấy động cả cộng đồng bản chung một lòng thành cầu mưa đã động đến trời. Then liền phái Thần Mưa làm nhiệm vụ. Thần Mưa sai Rồng phun mưa khắp thiên hạ. Người bản cầu được ước thấy có đủ nước trồng cấy, mùa màng bội thu, con người con vật thoát họa hạn hán đói khát, đời sống ổn định phồn sinh phồn thực.

Từ ấy Lễ hội Xa nặm phôn (cầu mưa) trở thành phong tục văn hóa nông nghiệp của người Thái còn truyền đến ngày nay .

Cầm Ngọc Thi kể- Ghi ở Mường Lò 1980.

Ngày ấy trên sân nhà Then ở mường Trời có con gà trống đỏ cựa đồng. Gà gáy năm sáu lần cựa rụng. Rụng xuống nước thành cá đuôi đỏ. Rụng xuống vườn thành hoa mai trắng, hoa đào tươi. Rụng xuống đỉnh núi thành trăng lưỡi liềm vàng đầu tháng, trăng tròn sáng giữa tháng và tối như tổ tò vò đêm cuối tháng.

Tháng giêng hoa gạo hé nụ như đầu dùi trống. Tháng hai hoa tòng nụ như cựa gà. Tháng giêng hai trời mở sấm xuân. Mưa xuân lấm tấm dìu dịu. Tháng ba tư dần dần sấm động. Tháng năm lá mạ buông mầm dài vị chát. Tháng sáu chim khướu tụ hội trên cành ríu rít ca. Tháng bảy nắng gắt mưa dai lũ lụt. Tháng tám sấm sét mưa to gió lớn. Tháng chín sấm tít trên cao. Tháng mười một chạp ông sấm đi ngủ. Nếu có sấm nhẹ thì đó là ông sấm ngáy.

Năm ấy trời muốn sấm mồng một tháng giêng, tết sợ đánh chết vía trâu, sấm mồng hai tết sợ đánh chết vía lúa, sấm mồng chín sợ đánh chết vía bà một ông mo, nên muốn chọn ngày khác là sấm lành.

Tháng tư năm ấy các tiên nữ nàng Ặc nàng Nè lấy nước thần tưới cho rễ cây si cây đa mường Trời quấn chặt họng trời buộc thít con nín, làm tắc họng trời, không cho gầm thành sấm sét, nên chưa có mưa to. Mường trần gian ruộng khô nứt nẻ, cây cối héo vàng mong mưa.

Chàng Cập chàng Cò lưỡi dài bằng quả núc nác, mắt to bằng quả ổi trâu. Họ giã gạo làm lương ăn, đeo vào lưng túi gạo trắng, đeo lên vai lưỡi rìu sáng loáng, bắc thang lên mường Trời ngắm xem họng trời. Chàng Cập phóng ba mươi nhát rìu Thái, chàng Cò chặt ba mươi nhát rìu Xá, chém rễ cây quấn họng trời, nàng Ặc nàng Nè mới cho trời gầm sấm sét đùng đoàng.

Nghe tiếng sấm cây cỏ, muôn vật , loài người vùng lên nhẩy múa. Chào mào, chèo bẻo đậu cành cao, voi ngựa đua nhau cúi đầu gặm cỏ, ếch cằm ngắn ngồi đồng kêu vang, dọn ổ hang hứng tai nghe sấm. Rau cỏ mọc ven suối xanh um. Rau hác mọc báo mùa gió bão. Măng đắng nghe sấm đua nhau mọc cao.

Chim khoàng khó khoàng khoái hòa cùng tiếng sấm hót gọi mùa. Người người nhanh tay sửa cày sửa bừa làm ruộng làm nương.

Quan tạo trong mường, người già dưới bản bàn bạc cho con trai con gái vào rừng hái măng xuống suối bắt cá, chuẩn bị đập trâu mừng sấm về.

Trời như trút nước xuống mường trần gian, sông suối tràn đầy, các mô đất lở thành bãi bằng. Ven đồng thành sóng trắng, giữa đồng thành sóng bạc. Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa cùng tiếng sấm reo vui.

Theo Lường Pàn và Minh Khương

Tổ tiên người Thái thuộc ngành nhân chủng da vàng hệ ngôn ngữ Tày- Thái phía Tây là người Tây Âu Việt thuộc địa bàn Tây Nam Trung Quốc, Bắc Lào và Tây Bắc Việt Nam. Nơi phát tích là lưu vực sông Đà và sông Hồng thuộc các bộ Kỳ Hưng, Ai Lao, Tây Vu, Tân Hưng nước Văn Lang xưa. Phía Tây giáp nước Điền Việt, phía Bắc giáp nước Ba Thục, phía Đông giáp Bộ Võ Định, phía Nam giáp Bộ Việt Thường .

Người Thái cổ là thổ dân miền trung du, thượng du khu Tây Bắc nước Văn Lang, là đất tổ của Thục Phán dựng nước Âu Lạc khi biển lùi.Tương truyền Thục Chế Thục Phán là người Ô man Thái đen quê ở mường Ác Bộ Tây Vu.

Tổ tiên người Thái lập mường đặt tạo ở các thung đồng ven bờ thượng lưu đến hạ lưu chín con sông nậm Công, nậm Ma, nậm Tà, nậm Tao, nậm U, nậm Nua, nậm Na, Lan Thương, (Vân Nam) Trường Giang. Đó là các mường Ôm (mường Ẵm) mường Tum Hoàng cách Lai Châu một tháng đường đi ngựa, mường Lò trên sông Nậm Na Vân Nam, mường Óc mường Ác, mường La ( Bộ Tây Vu), mường Bo tè, mường Lương mường Bo Hé ở Phông sa lì và Síp song Pa Na ( Bộ Ai Lao ), Mường Then Mường Thanh, mường Bum, mường Luân, mường Tè ( Bộ Kỳ Hưng và Tân Hưng), Mường Lò Nghĩa Lộ, mường Than, mường Tắc, mường Bin, mường Cang, mường Lư ( Bộ Tân Hưng)… Người Thái ban đầu có 5 họ Lò, Lường, Quảng, Tông, Khun, sau sinh ra nhiều họ khác, sống bằng nghề hái lượm, săn bắt, trồng trọt lúa nương lúa nước, sính ăn gạo nếp, gạo tẻ nuôi lợn, lúa tẻ nuôi gà, để cỏ mọc chăn nuôi trâu voi, dệt vải, sở trường dệt thổ cẩm, nung đúc đồ sắt đồ đồng, dựng nhà sàn mái rùa, hát khắp , múa xòe, thổi pí pặp. Họ thì nhuộm răng đen. Họ thì dát răng vàng. Họ thì dát răng bạc. Họ thì xăm chân, họ thì xăm mặt để làm đẹp. Trang phục phụ nữ theo hai màu y phục đen và y phục trắng. Do đó gọi là Thái Đen (Tay đăm), Thái Trắng (Tay khao). Thái đen có tục hỏa táng.

Từ khi có chữ, Thư tịch Hán ghi người Thái là tộc Man di, Hắc xỉ man, Kim xỉ man, Bạch xỉ man, Bạch di, Bách di, Bãi di, Bặc di, Bạc di, Lão , Sinh Lão, Man Bạch Y ( Thái trắng), Bộc, Thoán ô man (Thái đen).

Tổ tiên người Thái đấu tranh tự nhiên và đấu tranh xã hội thăng trầm qua nhiều giai đoạn để tự chủ tự cường tự tôn dân tộc. Họ đặt tạo xưng vua ở các mường lớn tiến tới lập quốc.

Tương truyền cháu ba đời của Thần Nông là Đế Minh giáng hạ dạy dân da vàng trồng lúa nước lúa nương và canh cửi lấy Nghĩa Lĩnh Sơn Ngã Ba Hạc Tam Giang làm đại bản doanh. Trong chuyến du sơn Thượng nguồn nậm Tao,Đế Minh đã gặp sơn nữ Bạch Y Man ở núi Vụ Tiên lấy làm vợ đưa về Nghĩa Lĩnh mở trường Minh Nông ở Kẻ Lú. Tại Nghĩa Lĩnh , Sơn nữ Vụ Tiên đã sinh ra ba người con trai là Lộc Linh Đế Nghi, Lộc Tục Kinh Dương Vương và Đế Lai. Lộc Linh Đế Nghi và Đế Lai cai quản Bắc Quốc từ Bắc Trường Giang đến Nam sông Hoàng Hà. Lộc Tục Kinh Dương Vương cai quản Nam Quốc từ Nam sông Trường Giang đến Ngàn Hống sông Rum. Vậy là một sơn nữ Thái đã kết duyên với chàng trai cháu Thần Nông của Then để sinh ra họ Hồng Bàng . Con trai Lộc Tục là Lạc Long Quân lấy con gái Đế Lai là Âu Cơ sinh bọc trăm trứng nở trăm con. Trong 49 con theo mẹ lên núi có những con cai quản đất phát tích của người Thái cổ làm chủ các Bộ Kỳ Hưng từ Nậm Ma đến Nậm Tà, Bộ Tân Hưng từ Nậm Tà đến Nậm Tao, Bộ Ai Lao từ Nậm Nua đến Nậm Công , Bộ Tây Vu từ sông Lan Thương đến Hồ Đại Lý.

Thời kỳ vua Hùng dựng nước Văn Lang, người Thái bản địa là chủ nhân của các Bộ Tây Bắc: Kỳ Hưng, Tân Hưng, Ai Lao, Tây Vu cùng với Bách Việt chung một nhà nước Hùng Vương giữ gìn lãnh thổ từ Nam Trường Giang đến Ngàn Hống. Bộ chủ Thái -Tày Ai Lao Tây Vu sáp nhập là Thục Chế Thục Phán cai quản vùng đất nay là Bắc Lào, Đức Hồng và Síp soong pa na (Vân Nam). Thục Chế là cháu chắt nàng Sa Nhất sơn nữ Thái trắng kết duyên với Lang Hùng thứ 36 Bộ chủ Tây Vu đầu tiên. Tương truyền cha Thục Chế là con rể vua Hùng Tạo thứ 15. Thục Chế sinh con lấy chức danh thủ lĩnh quân đội Thái (túc phắn) đặt tên là Thục Phán. Với ý thức tự chủ tự cường dân tộc Thái rất cao, hai cha con Thục Chế Thục Phán đã phát động cuộc chiến tranh Hùng – Thục, giành quyền quốc chủ chống Tần, tuy thất bại, nhưng được vua Hùng Duệ nhường ngôi cho Thục Phán. Thục Phán xưng là An Dương Vương lập nước Âu Lạc đóng đô ở Cổ Loa. Vậy là từ Tây Thiên Cổ Sắc thủ phủ Tây Vu, Thục Phán đã mở đất mở nước tới Cổ Loa Klủ trung tâm quốc gia mới hùng mạnh. Thành Cổ Loa kiến trúc viềng chiềng che cuông che tó vòng trong vòng ngoài chính là kiến trúc quân sự Thái mà trước đó Thục Chế đã xây thành Sam Mứn nay vẫn còn ở Điện Biên. (Vấn đề Vua Thục truyền thuyết và thần tích là người Thái-Tày cổ chủ Bộ Tây Vu con rể nhà Hùng, một chi họ Hùng Vương, Sách Việt sử lược của Lê Văn Hưu tồn nghi là người Ba Thục, Lê Văn Tân dựa vào tiểu thuyết hư cấu phi lịch sử của Lê Sơn cho là người Tày ở Cao Bằng, Bùi Thiết, Đinh Văn Nhật cho là người Tày phát tích ở Lan Đình, Trấn Yên, Yên Bái ).

Sau khi Âu Lạc mất về Nam Việt Triệu Đà, Bộ Ai Lao Tây Vu còn gọi là Ai Lao Di Tây Thục vần tồn tại cho tới đời Đường mới mất về nhà Hán. Năm 110 TCN Tây Vu Vương cháu Thục Chế đã hưởng ứng Lữ Gia phục quốc Lạc Hồng đem quân đánh Lộ Bác Đức.

Gián điệp Hán đóng vai sứ giả tới đất Thái Hồng Đức và Síp soong pa na đều bị Thục Chế, Thục Phán, Tây Vu Vương và con cháu họ giết chết.

Sau khi nước Nam Việt thuộc về Hán, phần đất Âu Lạc nhà Hán chia thành hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân. Con cháu Nhà Triệu sống sót lập nước Nam Chiếu từ Bộ Việt Thường qua bộ Ai Lao đến phía Tây Bắc Bộ Tân Hưng xưa (Nam Vân Nam) gồm sáu chiếu. Nhiều họ Thái trong lãnh thổ đã theo Nam Chiếu chống Hán.

Thời Đường họ Thái Hắc xỉ man lập nước Mãng Man xưng vua Mãng Chiếu gồm 10 Bộ lạc xưng danh Mãng Nãi Đạo bài Hán.

Tại Giao Chỉ người Thái không khuất phục nhà Đường. Lý Trác người Hán làm Kinh lược sứ An Nam hà khắc tư lợi, một đấu muối đổi lấy một con trâu, người Bạch Man Di bất bình liên minh với Nam Chiếu, tự xưng là Bạch Y Mệnh Lệnh Quân đánh An Nam đô hộ phủ thiêu hủy thành Tống Bình ra tro bụi.

Sau đó nhà Đường dồn hết binh lực lần lượt thôn tính Nam Chiếu, Ai Lao Di Tây Thục (Bộ Ai Lao Tây Vu của vua Thục xưa), Mãng Man và nước Thừa Tượng (Điền Quốc).

Phần lớn người Thái không chịu làm nô lệ nhà Hán đã thiên di sang phía Tây Nam lập quốc xây dựng nhà nước Thái Shan ở Myanma thế kỷ 10. Một phần thiên di theo sông Mê Công xuống phía Nam lập nước Lạng Sạn ở Lào, Ayuthawa, Sukhôtai, La Na ở Thái Lan thế kỷ 13-14.

Trên địa bàn Tây Bắc Việt Nam hiện nay Người Thái trắng Bach Y Man là thổ dân bản địa ở Lai Châu, Điện Biên, Mộc Châu, người Thái đen là Thái Thoán Ô man từ Vân Nam (Bộ Tây Vu xưa) theo nậm Tao thiên di tới Mường Lò Nghĩa Lộ, rồi sang Sơn La và lên Lai Châu.

Người Thái vốn có nền văn minh sớm, lập mường đặt tạo , có văn tự, có lịch riêng, thời đại Hùng Vương đã góp phần xây dựng nền văn hóa Đông Sơn rực rỡ còn để lại thạp đồng Đào Thịnh , Hợp Minh Yên Bái nổi tiếng. Có thể chủ nhân Thạp đồng Đào Thịnh là của một thủ lĩnh Thái Đen vì trong thạp đựng tro than người chết được hỏa táng. Còn Thạp đồng Hợp Minh đựng hài cốt trẻ thơ có thể chủ nhân là người Thái Trắng theo tục cải táng.

Qua hai thời kì tiền sử Pang tạo to mường (Tạo tìm mường) và Pang tạo kin mường (Tạo ăn mường) người Thái Cổ có công lớn trong sự nghiệp mở mang cõi bờ Văn Lang tới ngọn nguồn các sông Mê Công, sông Mã, sông Đà , sông Thao, hồ Đại Lý và chung biên giới với nước Ba Thục của người Ba Di.

Trong tiến trình lịch sử phát triển, người Thái một mặt hợp tác anh em với người Xá ( 10 giống Xá : Kháng , La Chí, Khơ Mú, Xinh mun…) và người Mường người Kinh với tinh thần “Xá Lùng Keo áo” (Xá anh, Kinh em chú), giao lưu kinh tế văn hóa ảnh hưởng sâu sắc lẫn nhau; một mặt tranh giành đất đai lập mường và quyền lực lập tạo đứng đầu các tộc người Tây Bắc Văn Lang, Âu Lạc và Đại Việt sau này.

Tên tuổi những người anh hùng huyền thoại thời đẻ đất đẻ nước như ông bà Ải Lậc Cậc, Tạo Cập, Ý Kè, Tạo Tum Hoàng, Tạo Xuông , Tạo Ngần vĩ đại sống mãi trong lòng dân tộc Thái tới muôn sau.

(Tổng hợp từ nhiều tài liệu)

Nàng là cô gái Thái Trắng xinh đẹp như tiên trên trời. Một hôm nàng xuống tắm ở ngọn sông Nậm Tao dưới hồ Đại Lý nay là châu tự trị Hồng Đức Vân Nam (Trung Quốc) thì chân ngọc của nàng đá phải cái củi chìm. Từ ấy nàng có bầu. Dân bản nguyền rủa ruồng rẫy nàng là kẻ không chồng mà chửa. Sau gần một năm nàng không đẻ ra con mà một bọc mười quả trứng. Lúc bấy giờ bản làng mới cho là sự lạ không ghét bỏ nàng nữa.

Mười quả trứng nàng đặt trên bờ sông nơi nàng tắm, một con Rồng bò lên tức thì trứng cùng nứt vỏ, ùa ra mười chàng trai vươn vai thành tráng sỹ oai phong lẫm liệt cúi lạy con Rồng đồng thanh nói:

Từ hôm ấy con Rồng ngày nào cũng bò lên bãi sông vui chơi với mười con. Nhưng chỉ có người con trai út dũng cảm dám ngồi lên lưng Rồng bay lên trời lặn sông Thao, lướt sóng hồ Đại Lý. Con rồng dạy cho các con văn võ song toàn và các phép cai mường quản quốc.

Một hôm con Rồng bay về trời đã truyền cho người con út thông minh dũng cảm làm vua tiểu quốc Thái Ai Lao Di Tây Thục tương truyền là Bộ Ai Lao Tây Vu thượng nguồn Thao nước Văn Lang xưa. Con Rồng chính là bộ chủ là lang Hùng thứ 36 con trai của Lạc Long Quân Âu Cơ.

Vua Ai Lao Di Tây Thục xây dựng đất nước hùng mạnh, dùng voi cày ruộng và đánh giặc, biết đúc đồng chế tạo vũ khí nhạc khí, quân đội tượng binh, kị binh và bộ binh rất thiện chiến, được các vua Hùng phong là phên dậu vững chắc của Tây Bắc Văn Lang. Để thắt chặt quan hệ với nhà nước Hùng Vương, đời bộ chủ nào cũng là con rể của các vua Hùng nước trưởng.

Nàng Sa Nhất trở thành Thái Hậu của tiểu quốc Ai Lao Di Tây Thục phong cho 9 người anh cai quản chín châu đôi bờ sông Thao từ biên Bộ Tân Hưng đến hồ Đại Lý. Nhưng rồi thói đời tranh hùng. Chín thủ lĩnh chín châu tranh nhau ngôi vua Ai Lao Di Tây Thục với em út. Họ đem quân đánh nhau nồi da nấu thịt khiến nàng Sa Nhất hết sức đau lòng. Nàng đứng trên Thành Cổ Sắc tuôn nước mắt như mưa nói :

-Cổ nhân có câu “Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau, Anh em như thể chân tay, Máu chảy ruột mềm… Ba cây chụm lại mới nên rừng”. Chỉ vì tý quyền lực mà các con đánh nhau không còn ra giống người nữa. Do đó mẹ ra lệnh cho chín anh quản châu nào về châu ấy thì dân trăm họ mới được yên ổn làm ăn, quốc gia mới giầu mạnh. Các con phải biết một sự nhịn chín sự lành. Anh em phải trên kính dưới nhường hòa thuận thì nước không mất nhà không tan. Các con hãy ngừng chiến chớ để Vua Hùng đem đại binh 15 Bộ đến đánh dẹp thì mẹ còn mặt mũi nào nữa?

Thế là chín người anh rút quân khỏi Thành Cổ Sắc để người em út tài ba làm vua mãn đời.

Nàng Sa Nhất biết hòa giải lui binh của chín con tranh hùng đem lại thái bình hạnh phúc cho dân nước khiến Then hết sức cảm phục. Khi nàng Sa Nhất về trời đã được Then phong là công chúa Hằng Nga cai quản mặt trăng tỏa ánh sáng hiền hòa xuống trần gian làm gương soi cho muôn kiếp người.

Từ ấy những đêm trăng tỏ người ta nhìn thấy Sa Nhất Hằng Nga thấp thoáng trên cung Quảng Hàn.

Cầm Ngọc Thi kể – Ghi ở Mường Lò 1980

Tết năm ấy người Thái ở Hạnh Sơn đang tưng bừng hội xuân. Trai gái trên sân hoa hạn khuống đang say sưa đàn tính tẩu hát khắp báo sao. Chỗ thì nam nữ thanh niên ném còn đỏ còn vàng. Chỗ thỉ trẻ em chơi trò đánh quay, đánh đu. Chỗ thì kết vòng xòe già trẻ xung quanh chum rượu cần… Vui ơi là vui.

Thấy người trần gian mở hội lồng tồng, Ma Long Vương tập họp quân lính nói :

-Người Thái Hạnh Sơn ăn tết lớn mừng xuân về không cúng ta. Phải cho bọn vô thần thất lễ một bài học mới được. Quân bay hãy theo ta làm mưa lũ sớm quét sạch người vật Hạnh Sơn xuống thủy phủ làm cỗ cho cá thuồng luồng mau!

Quân lính Ma Long Vương dạ ran. Sấm vang chớp giật. Mây đen cuồn cuộn đen kịt bầu trời. Lốc xoáy mưa tuôn như thác dội. Nhà bay, cây đổ, núi lở ầm ầm. Lũ ống lũ quét tràn ngập bản mường. Người chết kẻ sống khóc gào trong mưa gió.

Tạo bản Quảng Khằm kéo quân cung nỏ gươm giáo xông ra đánh nhau với Ma Long Vương. Nước bùn đất vung vãi khắp một vùng. Cây cỏ con người con vật lấm lem từ đầu đến chân. Dân làng ai nấy đều cầm dao cuốc thuổng xẻng ngả cây đào đất chặn dòng nước lũ, đâm cá, chém rắn trợ chiến giúp Tạo bản Quảng Khằm quyết đuổi Ma Long Vương ra khỏi bầu trời mặt đất. Trận đánh ác liệt chưa phân biệt thắng thua thì Tạo Mường Gia đem quân tới chi viện, xiết chặt vòng vây định bắt sống Ma Long Vương. Mũi tên thuốc độc bắn vào Ma Long Vương như mưa. Ma Long Vương khiếp sợ rơi khỏi lưng rồng tõm xuống suối, theo con cá chạch dẫn đường chuồn ra sông Đà. Mây đen tan hoang. Trời quang bừng nắng. Nước lũ cạn trơ .

Từ ấy bãi chiến trường trở thành cái ao lớn gọi tên là thôn Ao Luông (ao rộng). Do chiến sự cả Hạnh Sơn lấp lem bùn đất nên gọi tên bản Lấm.

Lường Thanh Xuân kể- Ghi ở Trường TNDT Lũng Mu 1980.

Ngày xưa ở Mường Lò có cô gái Thái rất xinh đẹp. Tóc dài như suối, răng trắng hạt lựu tơ. Đôi mắt lá răm đôi mày lá liễu. Giọng nói diu dàng thỏ thẻ oanh vàng. Trông thấy nàng con hổ phục xuống liếm chân, con chim đang bay hạ cánh chào, con cá đang bơi dựa khe đá ngắm nàng. Nàng thảo hiền , chịu khó, hay làm, dân bản ai cũng yêu mến. Hội xòe hát khắp nam thanh nữ tú ca ngợi nàng :

Ngày nào cũng vậy sau công việc đồng áng , nàng lại đeo giỏ cầm vợt xuống suối Thia xúc cá.

Dưới thủy cung vua Thủy Tề có một Hoàng tử khôi ngô tuấn tú văn võ song toàn, đã tuổi băm chưa tìm được người yêu vừa ý. Mỹ nhân ngư vô số ngấp nghé, chàng chẳng thuận ai. Một trưa hè chàng đang ngồi mát ngắm cảnh thủy cung thì trông thấy bóng người con gái đẹp tuyệt trần. Hoàng tử liền quẫy mình một cái đã đến bên nàng. Đang mải xúc cá bỗng thấy người con trai dưới nước đứng lên , quần áo như rát bạc, nàng sợ hãi ngã xuống nước. Hoàng tử vội vàng bế nàng lên bờ chữa chạy. Một lát sau nàng tỉnh dậy, thấy mình nằm trong vòng tay của chàng trai lạ, nàng định vùng chạy, nhưng chàng trai dịu dàng nói :

-Anh là Hoàng tử con vua Thủy Tề đến với em bằng tấm lòng yêu thương chứ có làm hại em đâu mà sợ!

Nghe chàng nói thành thật tha thiết, nàng nằm yên để cảm nhận cái hơi ấm diệu kì lan tỏa xung quanh mình. Nó như là hạnh phúc trời ban cho mình, không thể bỏ đi được. Nghĩ vậy nàng cứ để yên lim dim đôi mắt nhìn chàng. Chàng cũng nhìn nàng. Bốn mắt gặp nhau cùng muốn không bao giờ khép lại. Nhưng không ở lâu được trên cạn, chàng tạm biệt hẹn nàng gặp lại nhau nơi này.

Cuộc tình của hai người bại lộ. Bọn trai bản cầm đầu là con ông tạo đã săn đón nàng nhiều lần không được nên đã theo dõi rình trộm. Trưa hôm ấy nàng và Hoàng tử đang tâm tình thì bọn trai bản ập đến. Thấy vậy nàng hoảng hốt bảo Hoàng tử:

-Chạy đi ! Anh ơi!

Hoàng tử thấy không còn cách nào khác hóa thân thành con hươu trắng chạy ra bờ suối. Nhưng không kịp. Một mũi tên đã cắm đúng trái tim chàng. Vớ được con hươu trắng bọn trai giết thịt đem chia cho mỗi gia đình trong bản một miếng. Riêng có một nhà đi vắng nên miếng thịt được treo ở sân trước cửa.

Vua Thủy Tề được tin con trai bị giết tức giận lớn như biển bèn sai hàng vạn thủy tộc dâng nước lên báo thù. Thế là một trận lũ khủng khiếp cuốn trôi sạch sanh nhà cửa của dân bản. Chủ nhà đi vắng bị cuốn trôi một góc chỗ treo miếng thịt.

Sau khi nước rút cái bản mổ hươu trắng ăn thịt còn trơ đất sâu hoắm xuống nên người ta gọi là bản Lốm nghĩa là lúm xuống.

Theo Lò Văn Lả và Phạm Đức Hảo.

Ngày xưa ở bản Phù Nham có đôi trai gái yêu nhau tha thiết đắm say. Nhưng không lấy được nhau.

Chàng trai tên là Khun Sa con nhà cuông nghèo khổ cùng đinh xã hội. Chàng hơn người đẹp trai tài giỏi nhất vùng. Chàng biết đúc sắt rèn sắt chế tạo súng săn. Nương bản nào có lợn lòi sơn dương phá hoại mùa màng là chàng vác súng tới bắn trúng vài con mang về bản khao bà con làm bữa sơn hào và bán kiếm sống. Nương ấy lợn lòi sơn dương bạt vía không về nữa. Chàng lặn suối bắt cá Sỉnh cũng tài. Cứ con nào to béo chàng mới bắt, con nào gầy nhỏ chàng thả ra để nuôi, đặc biệt chàng không bắt con cá có bầu trứng để nó sinh sản. Chàng thường tham gia các hội xuân các bản đua ngựa bắn súng tranh giải nhất hàng năm và thích hát báo sao trên sân hoa khạn khuống khiến nhiều người mê. Chàng được nhiều cô gái muốn lấy làm chồng. Nhưng chàng chưa có đồng bạc trắng để hỏi vợ.

Cô gái tên là Nàng Ủa tuyệt vời xinh đẹp con nhà tạo bản. Nàng Ủa có khôn mặt trái soan, da trắng như nõn cây chuối rừng, tóc dài mượt như suối, đội khăn piêu, mặc áo cỏm, váy đen, thắt lưng hồng, đeo xà tích bạc càng thêm xinh đẹp bội lần. Nàng dệt vải thổ cẩm và thêu thùa chưa cô gái nào sánh kịp. Nàng gẩy đàn tính tẩu và hát khắp báo sao khiến con chim bay phải đáp cành lắng nghe. Đã mấy năm nàng được chọn làm lắc xáy cốc ngồi trung tâm sân hoa khạn khuống trong lễ hội lồng tồng. Trai mường trên bản dưới liên tiếp chọc sàn nhà tạo, nhưng nàng Ủa chưa chọn được người nào đến nhà ở rể.

Nàng Ủa từng hát khắp báo sao với chàng Khun Sa trên sân hoa hạn khuống rất ăn ý ăn tình. Hai người lần nào gặp nhau cũng lòng trong như đã mặt ngoài còn e. Khun Sa biết thân phận con nhà cuông đâu dám chơi chòi con nhà tạo bản. Còn nàng Ủa thì không hề nghĩ phải lấy chồng môn đăng hộ đối. Nàng mơ ước một tấm chồng khỏe mạnh dễ thương tài ba như Khun Sa.

Hai con tim thôi thúc như trống giục không thể cưỡng nổi, họ đã lấy cớ đi rừng tìm đến nhau hát khắp báo sao tỏ tình. Khun Sa cất tiếng trước : ” Con cá sỉnh bơi trong suối / Cho lòng anh sao bối rối / Bông lúa chín vàng ruộng nương / Cho lòng anh sao vấn vương” Nàng Ủa vươn cao cổ trắng ngà như bông huệ hát đáp : ” Trong suối con cá sỉnh lội / Chàng đem chài ra tung quăng / Lúa ruộng lúa nương chín vàng / Chàng đem liềm hái ra gặt “…

Cứ thế ngày nào cũng thế họ hát tối ngày vẫn không rời nhau. Lúc ra về họ cầm tay nhau một hồi lâu mới từ từ chậm chậm buông ra, rồi lại cầm tay nhau dùng dằng không muốn xa.

Hôm sau họ bàn nhau chọn ngày tốt nhờ bà mờ đến nhà tạo dạm ngõ. Chàng tin nàng đã thuyết phục được mẹ cha không phân biệt giầu nghèo trong hôn nhân, nên đã nhờ bà mờ mang cơi trầu đến nhà tạo bản thưa chuyện thì cha nàng nói:

-Người Kinh Keo còn có câu: “Bao giờ chạch đẻ ngọn đa / Sáo đẻ dưới nước con ta lấy chàng.” Bà về bảo thằng Khun Sa hãy thôi yêu cái Ủa của nhà ta. Nếu không thì về mường Trời sớm.

Bà mờ xin lỗi nhà quan ra về thầm nghĩ : ” Nhà tạo cũng là người sao mà như yêu tinh thế ?” Bà mờ cho Khun Sa biết tin buồn. Khun Sa tuyệt vọng không làm không ăn chỉ đóng cửa lều nằm dài than trời thở đất.

Bà mờ ra về thì tạo bản gọi con gái ra giữa nhà nói chuyện. Tạo bản phi con dao găm cắm phập vào cái cột gỗ đinh phán:

-Tao cấm mày lấy cái thằng con nhà cuông cùng đinh xã hội nghe chửa! Ít ra mày phải làm dâu con nhà tạo bản như tao nghe chửa!

Nàng nghe cha nói như tiếng sét choáng tai. Nàng ù té chạy một mạch vào rừng sâu tìm Khun Sa bàn nhau đi trốn. Đi mãi đi mãi không thấy, nàng kiệt sức ngồi xuống tảng đá khóc thảm thiết rồi nằm đất vĩnh viễn. Nước mắt của nàng ràn rụa đẫm chín cánh rừng chảy thành dòng suối nước mắt qua Mường Lò đổ ra sông Thao. Suối nước mắt ấy, tiếng Thái giọi là Nậm Thia. (Thia có nghĩa là mắt). Tương truyền mái tóc của nàng trôi theo dòng suối biến thành rêu đá quanh năm xanh mượt.

Ngày tết năm mới, trẻ em đến Nậm Thia lấy rêu đá xài lơ (quấn khăn) lại nhớ đến bi kịch tình yêu của nàng Ủa ngày xưa.

Cầm Ngọc Thi kể- Ghi ở Mường Lò 1980

Ngày ấy một chàng trai Mông vừa nghệ sỹ vừa đa tình tên là Thào A Páo từ Khau Phạ mang khèn xuống núi tham dự hội xuân Lồng Tồng của người Thái ở tận bản Nà Hẩu.

Chàng bước lên sân hoa Hạn Khuống bỗng đứng sững lại trước người đẹp hút hồn sao tổn khuống lắc xáy cốc Cầm Ngọc Va. Suýt nữa thì chàng ngất sỉu trước bông ban trắng ngần chưa từng thấy bao giờ. Một lát sau chàng mới trấn tĩnh đưa ống khèn lên môi khom khom nhảy xung quanh lắc xáy cốc. Tiếng khèn trầm trầm êm ái như tiếng đục của suối ngàn ngân lên lời hát gầu plềnh:

Lắc xáy cốc Cầm Ngọc Va cất tiếng hát trong trẻo thiết tha theo nhịp khèn lời khắp báo sao:

Rồi tiếng khèn chuyển điệu, chàng Mông cô Thái đồng thanh hát :

Thào A Páo vừa múa khèn vừa hát:

Với tấm lòng cởi mở hiếu khách và gặp nhau trong giai điệu xuân, Cầm Ngọc Va dương ô theo lối Mông cất tiếng hát khắp báo sao :

Bóng ô của nàng che trên đầu chàng đang nhảy nhảy thổi khèn vè vè. Rồi nàng cụp ô đứng một bên. Chàng cầm khèn đứng một bên. Hai người đối diện nhau hát đối đáp giao duyên Mông Thái. Chàng cất giọng nam trầm :

Nàng cất giọng nữ cao hát đáp :

Hai người chạy đến với nhau, nàng xòe ô che chung hai mái đầu xanh trong tiếng vỗ tay như pháo ran của ngày hội Lồng Tồng.

Trong bảy ngày khóc nước mắt của chàng tuôn ra thành một dòng suối dọc núi Tà Đăng đổ xuống lượn vòng một thung lũng cỏ cây um tùm. Dòng suối ấy chứa đầy tiếng khèn tiếng hát gầu plềnh của chàng họ Thào, lúc nào cũng ngân nga không bao giờ dứt. Đàn cá nghe tiếng hát ngọt ngào kéo về đầy suối. Con chim uống nước suối giọng hót càng trong trẻo hơn. Con vượn uống nước suối kêu càng hay. Người thợ rừng nào qua đây uống nước suối tắm suối trở về tự nhiên biết thổi khèn và say sưa hát gầu plềnh nếu là người Mông, hát khắp báo sao nếu là người Thái…

Lại nói nàng Cầm Ngọc Va không phải là vô cảm với chàng trai Mông, mà nàng đã yêu chàng với tình yêu đẹp nhất trên sân hoa hạn khuống đã mở ô che cho chàng múa khèn khiến cả đám hội Lồng Tồng đã chứng giám và mừng vỗ tay. Nhưng cái tăm tối tộc lệ còn ngự trị gia đình dòng họ đã ngăn cấm nàng tơ tưởng đến một người khác tộc. Do đó nàng đã nhiều lần tránh gặp lại nghệ sỹ Mông Thào A Páo.

Sáu chục năm trôi qua. Một hôm bà lão Cầm Ngọc Va gọi người con trai đến bảo:

-Ngày còn trẻ mẹ nằm mơ thấy một dòng suối nước mắt cất lên tiếng hát thiết tha gọi tên mẹ. Con đi săn kết hợp tìm xem dòng suối trong mộng ấy ở đâu. Chắc nơi ấy có duyên gì với mẹ chăng?

Nghe mẹ, người con trai của Cầm Ngọc Va là Lò Ngọc Sơn trong một chuyến đi săn đã tới núi Tà Đăng gặp dòng suối nước trong như ngọc chim tắm cá bơi nước chảy nghe như tiếng khèn tiếng hát rất trữ tình và một thung lũng phì nhiêu, chàng đã gặp một cụ già người Mông hỏi về con suối ấy tên gì thì cụ già nói:

-Thời tôi còn trẻ nghe nói có một chàng trai Mông yêu một cô gái tha thiết, chàng không được cô gái ấy đáp tình đã cầm khèn lên núi này thổi khèn và hát những bài ca than thân trách phận yêu đương đơn phương đau khổ và khóc hết nước mắt rồi chết. Nước mắt của chàng biến thành con suối ngày đêm chảy xuống thung lũng hoang kia như cất tiếng hát tiếng khèn và được gọi là suối Nước Mắt.

Trở về nhà, Lò Ngọc Sơn kể lại câu chuyện cho bà mẹ nghe. Bà cảm động rơi lệ rồi sai con trai đưa gia đình lên thung lũng suối Nước Mắt dưới chân núi Tà Đăng dựng nhà, khai hoang, lập bản. Bà lão Cầm Ngọc Va đã quên hát khắp báo sao từ lâu do tắm suối Nước Mắt và uống nước suối ấy bỗng nhiên lại thuộc hết những bài hát đối đáp với Thào A Páo xưa và giọng vẫn hay như thời con gái. Như có linh tính mách bảo người yêu trên sân hoa hạn khuống năm ấy của bà vẫn theo bà và phù hộ cho gia đình bà đến vùng này làm ăn giầu có hẳn lên, ai cũng biết hát và hát hay. Bà thầm lặng lập một bát nhang thờ nghệ sỹ Mông Thào A Páo và gọi người con trai đến bảo :

-Con hãy làm tờ trình quan chi châu gọi dòng suối Nước Mắt này là suối Hát, bản này là bản Hát.

Từ ấy bản Hát của người Thái và suối Hát trên núi Tà Đăng có tên trên bản đồ của huyện Trạm Tấu.

Sự tích hang Bu suối Bu bản Bu

Ngày ấy Tạo Mường Bảnh chơi thân với Tạo Mường Lò. Tạo Mường Bảnh có con trai chưa vợ là Tông Kinh khôi ngô tuấn tú đậu hương cống chữ Thái. Tạo Mường Lò có một con gái duy nhất xấu xí ma chê quỉ hờn tên là Lò Thúy Liên chưa chồng.

Một hôm Tạo Mường Bảnh đến chơi nhà Tạo Mường Lò. Cha Lò Thúy Liên cấm nàng ra tiếp khách, ngồi dấu mặt trong buồng. Đích thân Tạo Mường Lò xuống chân cầu thang đón khách lên sàn mời ngồi chiếu hoa. Một cô gái khăn piêu áo cỏm váy đen thắt lưng hồng xà tích bạc tuyệt vời xinh đẹp bưng rượu mời chủ và khách. Họ chạm cốc đánh cạch. Chủ hãnh diện. Khách vẻ rất hài lòng. Chuyện trò rôm rả xung quanh gia cảnh. Xong tiệc rượu đến tiệc cơm. Một cô gái khăn piêu, áo cỏm, váy thâm, xà tích bạc, thắt lưng xanh, xinh đẹp tuyệt trần yểu điệu bưng ra mâm cỗ đặt xuống chiếu, so bát đũa, ân cần mời. Tạo Mường Bảnh sững sờ nghĩ thầm: “Không ngờ Tạo Mường Lò lại có hai con gái chưa chồng đến Tiên Sơn cũng không bằng. Ta mà được một trong hai cô này về làm dâu sánh với Tông Kinh thì đăng đối biết bao!” Như đoán được ý nghĩ của khách, chủ nhà nói :

-Hai con gái ta đấy! Trông được đấy chứ ! Nghe nói ông có cậu Tông Kinh đậu hương cống đã có người nâng khăn sửa túi chưa?

-Cậu đang kén người để ở rể. Chả biết Tạo Mường Lò hào hiệp có nhận không?

-Ồ! Ta với ta hộ đối quá còn gì! Một trong hai, ưng đứa nào cho ở rể đứa ấy!

Hai cô gái họ hàng hầu cơm rượu nghe nói mà thẹn đỏ mặt cứ như hai trái đào chín tới vậy!

Cơm nước xong sang tiệc trà, lại một cô gái đẹp thứ ba bưng khay trà bước ra mời. Chủ càng vênh vang. Khách càng thầm phục. Cô gái xuất hiện làm cho nhà sàn bừng sáng. Tiệc nước xong Tạo Mường Bảnh định cáo về thì chủ nhà nắm tay giữ lại nói :

Một chàng trai bước ra chào kính trọng thân mật kể một loạt chuyện sự tích của Mường Lò như Hoa Ban, Hang Thẩm Lé, núi Pú Chạng, suối Nậm Thia…rồi đến một tốp nghệ nhân chơi đàn tính tẩu, thổi khèn bè, sáo pí pặp, pí thiu, hát khắp, hát then. Tiếp theo là trai thanh nữ tú trong mường đến nhà tạo mở hai vòng xòe nhạc và khăn cùng các điệu múa sạp, múa nón, múa quạt… ngay giữa nhà sàn làm vui cho khách.

Đến lúc mặt trời tà, Tạo chủ tiễn Tạo khách đến chân cầu thang thì ở đó có hai cô gái xinh đẹp chân trọng dâng chén rượu nếp thơm lừng. Chủ và khách lại chạm chén đánh cạch chào tạm biệt hẹn gặp lại.

Trở về nhà Tạo Mường Bảnh gọi Tông Kinh đến bảo:

-Nhà Tạo Mường Lò có hai con gái tuổi cập kê, bố vừa mắt vừa ý, muốn hỏi vợ cho con lắm. Hôm nào tốt ngày, bố đưa con đến chơi xem mặt chắc bằng lòng ngay!

Ngày hoàng đạo giờ tốc hỷ hai cha con đến chơi nhà Tạo Mường Lò. Người cha lại cấm Lò Thúy Liên ra khỏi buồng, cho gọi hai cô gái họ hàng hôm trước đến tiếp rượu trà cơm thịnh soạn hiếu khách hơn lần đầu. Tông Kinh làm quen hai cô tên là Lò Thúy Liên và Lò Thúy Loan. Trên đường về nhà, người cha hỏi con trai :

-Con thích Lò Thúy Liên hơn!

Thế là ngày tốt hôm sau Tạo Mường Bảnh nhờ bà mờ mang cơi trầu đến Tạo Mường Lò hỏi vợ cho con trai. Theo thời mới Tạo Mường Lò bỏ qua lệ ở rể vì cậu Tông Kinh sắp được bổ quan châu và cho cưới ngay. Ngày cưới cô dâu Lò Thúy Liên con gái duy nhất của Tạo Mường Lò chùm tấm khăn hồng dấu bộ mặt xấu xí ma chê quỉ hờn. Khi về nhà chồng Tông Kinh mở tấm khăn hồng ra thì than ôi không phải là cô Thúy Liên hôm trước. Chàng ngất sỉu. Tạo Mường Bảnh bị Tạo Mường Lò lừa gạt tức phát điên. Định dẫn nàng dâu đem trả, nhưng lại thôi vì đã làm giấy giá thú và lại giữa dịp tết nhất lôi thôi làm mất dông cho cả năm của gia đình họ hàng làng bản. Nên cha con Tạo nén giận qua ba ngày tết. Ra giêng, Tạo Mường Bảnh mời ông thông gia đến nhà chơi bình tĩnh nói :

-Tạo Mường Lò à! Ông lừa bố con tôi! Con tôi ưng một trong hai cô hầu rượu cơm người họ hàng nhà ông cơ! Còn con gái duy nhất của ông đã đội lốt họ để lấy con tôi như đôi đũa lệch đo sao cho bằng? Ông tính sao đây?

-Con tôi xấu người nhưng nết đẹp. Người Kinh Keo kia còn có câu : “Cái nết đánh chết cái đẹp”, ông biết chứ ! Thôi thì cái chuyện duyên số đã rồi. Tôi đền bù cho ông một cái hang nước trong núi của tôi là bất động sản được không? Nếu ông đồng ý thì tôi viết văn tự điểm chỉ đóng dấu Tạo mường luôn.

Được núi hang suối một vùng lãnh thổ khá rộng có thể lập được một bản. Tạo Mường Bảnh nghĩ vậy rồi gật đầu. Trong văn tự ghi tên là Hang Bù, Suối Bù. Về sau gọi chệch đi cho thuận tai gọi là Hang Bu Suối Bu.

Một phen thay đổi sơn hà, ông Tạo Mường Bảnh chết, Tông Kinh lấy vợ bé, làm quan chi châu Hoàng Nham phủ Tây An. Hang Bu Suối Bu bỏ hoang lau lách um tùm. Người Mông từ Trạm Tấu tới khai hoang làm ăn sinh sống định cư đặt tên là bản Bu.

Cầm Ngọc Tú kể – Ghi ở Mường Lò 1980

Sự tích hai hàng khuy bướm bạc

Ngày xưa có chàng trai họ Lò và cô gái họ Cầm yêu nhau say đắm nguyền non thề núi kết đôi trăm năm. Nhà họ Cầm chê nhà họ Lò quá nghèo không muốn gả cô gái cho chàng trai nên thách cưới một trăm con trâu, một trăm con bò, một kho thổ cẩm, trăm tấm lụa trắng, trăm tấm the đen, vàng vạn lượng, bạc nghìn cân…

Để có tiền cưới cô gái họ Cầm, chàng trai họ Lò quyết chí đi buôn. Chàng mua sừng tê ngà voi từ Ai Lao mang về kẻ chợ bán. Chàng lại mua muối từ biển Đông lên Mường Then, Mường La bán.

Ngày ra đi chàng hứa với người yêu ba năm sẽ về có đủ tiền sắm lễ vật cưới nàng mà nay đã mười năm chưa thấy tin tức gì. Nàng vẫn kiên lòng chờ đợi mỏi mòn. Nhưng một hôm hai mẹ con nàng cùng lâm bệnh hiểm nghèo rồi cùng qua đời.

Như có linh tính mách bảo, chàng từ Ai Lao tức tốc trở về thì thấy dân bản đang cử lễ tang cho hai mẹ con, chàng vô cùng đau xót, quì giữa hai quan tài, một bên tay nắm vạt áo mẹ, một bên tay nắm vạt áo người yêu mà than khóc thảm thiết.

Đến khi nắp quan tài đóng sập xuống, nhưng chàng vẫn chưa buông tay nắm hai vạt áo. Mọi người đành mỗi bên xén một vạt áo để lại trong hai bàn tay chàng.

Chàng cầm hai vạt áo giơ lên để ôm vào lòng thì từ hai vạt áo biến thành hai cánh bướm trắng chắp liền vào nhau tung bay đi.

Chàng quá thương tiếc mẹ và người yêu mấy ngày sau cũng qua đời. Từ nấm mồ chàng bò lên cây như một con Tô nhôm moong (Cày Vòi) nằm bất động, không ăn, không uống, gầy tóp trên tít ngọn cao để được ngắm từng đàn bươm bướm trắng rợp rờn bay mỗi mùa xuân đến.

Bà con bản rất xúc động và trân trọng mối tình trong trắng thủy chung của đôi trai gái họ Lò họ Cầm và đạo hiếu của người con đối với mẹ quá cố. Để ghi nhớ truyền đời, họ đã chắp hình tượng hai cánh bướm đính ép nó lên ngực áo nơi có trái tim con người.

Vì thế ngày nay chiếc áo cỏm của phụ nữ Thái được đính hai hàng khuy bướm bạc vừa kỉ niệm vừa tôn vinh tình yêu trong trắng chung thủy.

Cầm Vân kể- Ghi ở Trường TNDT Lũng Mu Nghĩa Lộ 1980

Ngày xưa ở bàn nọ có cô gái xinh đep và tài hoa. Do đó người bản gọi nàng cái tên đẹp là Hoa. Nàng lớn lên ngày một đẹp hơn. Khuôn mặt tròn của nàng khiến trăng rằm phải ẩn náu. Đôi mắt long lanh của nàng làm cho sao đêm mùa hạ phải mờ. Nàng vừa dệt thổ cẩm vừa hát. Tiếng hát của nàng cao vút trời xanh, làm mây ngừng bay chim ngừng ca, vượn ngừng hót, cá ngừng bơi, suối ngừng chảy. Tất cả sững sờ mê li ngây ngất. Nàng hát xong bài khắp thì tấm thổ cẩm dệt cũng xong, đẹp hoàn mĩ, hiện lên bức tranh mùa xuân trăm hoa đua nở, mùa thu trăm trái chín vàng, đồng xanh núi lam tím, ngày mặt trời đêm mặt trăng sáng mênh mông, gái trai xiết chặt vòng xòe, xốn sang tiếng khèn bè, ném còn vàng còn hồng chui qua vòng xanh vòng đỏ trên trời…

Danh tiếng nàng Hoa lừng lẫy thiên hạ. Các chàng trai tài nghệ, mường trên bản dưới nô nức tìm đến nhà nàng Hoa hát khắp, thổi sáo, đàn môi tỏ tình véo von réo rắt suốt mùa trăng. Riêng chỉ có tiếng sáo pí pặp của chàng họ Lò ở bản suối dưới là lọt được vào tai nàng :

Thế là hai người gặp nhau thề trăng hẹn núi, trăm năm kết tóc xe tơ. Chàng họ Lò nói với cha mẹ nhờ ông mối bà mai đến thưa chuyện với cha mẹ nàng Hoa. Biết chàng họ Lò con nhà nghèo, không ưng, cha mẹ ép Hoa lấy chồng quan châu con nhà tạo có quyền chức giầu sang.

Nàng Hoa và chàng họ Lò dắt nhau lên rừng đào cái huyệt to, cùng nằm xuống, cùng ăn chung nắm lá ngón để giữ trọn lời thề.

Mối đắp cho họ nấm mồ lớn. Không lâu sau từ nấm mộ chung mọc lên bụi nứa tép cao vút. Cành lá tươi xanh rì rào trong gió những âm thanh huyền ảo. Những đêm trăng sáng, những người thiện tâm trông thấy từ bụi nứa tép hiện ra đôi trai gái tự tình. Người hát kẻ thổi sáo hòa tấu một giai điệu tình yêu đắm say lay động lòng người. Người ta bảo đó là hồn của nàng Hoa và chàng họ Lò vẫn còn linh hiển.

Từ đó trai bản trên gái mường dưới đến tuổi cập kê rủ nhau tìm bụi nứa tép khấn vái xin đốt ống nứa về làm cây sáo thổi gọi người yêu tự tình. Cây sáo pí pặp với những âm thanh muôn vẻ của tình yêu còn lưu truyền đến ngày nay.

Đinh Văn Liễn kể – Ghi ở Trường TNDT Lũng Mu Nghĩa Lộ 1980

Thời ông Tạo Xuông Tạo Ngần xuống trần gặp Đá Nhai đã cho ném 360 quả bưởi 360 quả bòng vào mồm bị tê đắng mới ngừng nhai, con người con vật được thoát nạn. Tạo Xuông Tạo Ngần về trời, hồn Đá Nhai biến thành con quỉ bốn mồm khổng lồ, bốn cổ đàn hồi có thể vươn dài ra xa ngàn dặm, mỗi mồm như cái mồm trâu nhưng có hai hàm răng bằng , mỗi cái răng trắng ởn to như tảng núi đá, sau khi mồm há vơ được con người con vật thì nhai đi nhai lại xương thịt nát ra cám thì nuốt vào cái bụng to như quả núi.

Mường nào có nhiều người nhiều trâu bò voi ngựa thì cái đầu Quỉ Nhai vươn tới mồm vơ một lượt được hàng trăm người vật mới đủ một mẻ nhai. Bốn cái mồm cùng hoạt động ở bốn mường thì chẳng bao lâu con người con vật trần gian sẽ hết sạch.

Con người con vật phải phân tán và trốn tránh trong hang đá mới có thể thoát miệng Quỉ Nhai nhưng lại chết đói và bệnh tật.

Dân trăm họ đều lo sợ cậy thầy mo cúng bái hiến tế người vật để Quỉ Nhai tha mạng cũng không xong. Bắt chước người xưa ném bưởi ném bòng ổi xanh ớt bồ hòn cũng vô ích vì cái gì không ăn được Quỉ Nhai khạc ngay ra ngoài. Ai nấy đều căm thù Quỉ Nhai tìm cách giết chết nó để cứu lấy mình.

Mường nọ có chàng Lường Chiến một hôm có dông bão thấy sét đánh chết một người trú dưới gốc cây cổ thụ, chàng nói một mình: ” Ta phải tìm ra vật gì gây tiếng nổ như sét trong mồm Quỉ Nhai thì nó mới đi đời nhà ma”. Chàng đi gặp các nhà thông thái khắp chín con sông hỏi xem có chất gì làm thuốc nổ giết Quỉ Nhai thì ai cũng lắc đầu chưa phát minh ra được. Một đêm chàng nằm mơ thấy một ông già tóc bạc phơ râu trắng như cước, mặt hồng hào đứng ở bên giường bảo :

-Ta là Then đây! Ta mừng cho con đã có chí khí giết Quỉ Nhai cứu người cứu vật. Con muốn có tuốc nổ thì lấy diêm sinh màu vàng tán bột chộn với bột than cây soan và bột phân dơi rồi nhồi trong ống nứa khô kèm theo một ống nứa đựng dầu quả rái buộc vào cổ con bò. Quỉ Nhai nhai con bò thì nó sẽ toi mạng.

Nói rồi Ông già biến mất. Chàng làm theo lời Then dặn.

Hôm ấy Quỉ Nhai vươn một đầu đến bản Quỳnh . Chàng lùa đàn trâu bò vào miệng Quỉ Nhai trong đó có một con bò mang thuốc nổ và ống dầu rái. Khi hai hàm răng nhai nghiền vào ống thuốc nổ, do ma sát nên ngòi thuốc cháy nổ một tiếng vang như sét, lửa bắt vào dầu rái cháy đỏ lòm miệng Quỉ Nhai, hai hàm răng vỡ tan và một đầu chết thui, bay mùi khét lẹt. Quỉ Nhai bốn mồm còn ba.

Hôm sau chàng đến bản Lũng và hai bạn chiến đấu của chàng đến bản Võ và bản Bảo diệt ba mồm của Quỉ Nhai đều cháy nổ chết thui cả ba. Quỉ Nhai rãy đành đạch gồng lên ầm ầm đổ vỡ rung chuyển như động đất rồi chết hóa thành núi.

Từ ấy con người con vật thoát họa Quỉ Nhai được sống bình yên tiếp tục sinh sôi nẩy nở đông đàn dài lũ. Bốn nơi mồm Quỉ Nhai bị cháy nổ chết tương truyền là Quỳnh Nhai ở Sơn La, Bảo Nhai, Võ Nhai ở Văn Bàn Lào Cai, và Lũng Nhai mà Lam Sơn mở hội thề ở Thanh Hóa. Người anh hùng Lường Chiến được đồng bào Thái Xá ghi nhớ đặt tên cho một mường tương truyền là Mường Chiến ở Than Uyên.

Quảng Đại kể- Ghi ở Trường TNDT Bảo Hà 1981

Ngày ấy, có một con trâu thành tinh. Hôm nào nó cũng dẫn đầu đàn trâu rừng phá hết lúa của người Thái trên bốn cánh đồng lớn Thanh Lò Than Tắc hòng làm cho người Thái hết xôi nếp chết đói , lợn người Thái nuôi hết cháo gạo tẻ chết gầy.

Tạo các mường tuyển thanh niên trai tráng cưỡi voi xông pha trận mạc cung bắn, giáo đâm chỉ diệt và đuổi được những con trâu rừng bình thường ra khỏi ruộng nương. Còn con trâu thủ lĩnh thành tinh hung hăng không ai diệt được. Mũi tên bắn vào da nó không thủng. Nó dùng tứ chi đá, hai sừng húc, răng mõm vơ đến voi cũng phải thua, hổ cũng phải chạy. Còn tráng sỹ tài ba nó chỉ gẩy sừng nhọn hoắt cho một chưởng thì thủng bụng, bay lên trời, rơi xuống đất tan xác.

Bản nọ có cô gái tên là Cầm Làn đi làm nương không đội nón bị thấm vài giọt mưa vào đầu, về nhà tự nhiên có bầu. Thấy nàng không chồng mà chửa, tạo bản định thi hành hương ước phạt vạ, thì cô gái bỏ trốn vào hang núi ở. Đến ngày khai hoa, cô gái sinh được cậu bé khôi ngô tuấn tú, không cần bú mớm, lớn nhanh như thổi, thân hình rắn chắc như sắt như đồng, một trăm tráng sỹ không địch nổi. Ai cũng bái phục tôn vinh là con trời và gọi chàng là Cầm Thiên Thiết. Năm ấy chàng vừa tròn mười bảy tuổi chí khí hiên ngang muốn làm việc nghĩa ích quốc lợi dân.

Một hôm có tin đồn con trâu thành tinh đã tới Mường Lò phá lúa phá nhà húc chết nhiều người trên đường nó gặp . Cầm Thiên Thiết xin phép mẹ ra đi diệt con trâu thành tinh cứu mường. Chàng một mình chân tay không vũ khí đón đầu trâu thành tinh, hai tay nắm hai sừng đẩy lùi nó hàng chục dặm tới tận hang Thẩm Lé. Tay phải chàng lắc mạnh bẻ một cái thì gẫy một sừng. Trâu thành tinh rống lên như tiếng sét rung trời rồi chết cứng. Chẳng bao lâu nó hóa thành con trâu đá gẫy một sừng, đã bao đời mưa gió nước chảy đá mòn vẫn còn lưu hình dạng đến ngày nay.

Trừ được họa trâu thành tinh cứu mường, Cầm Thiên Thiết về hang núi chào mẹ rồi lên đỉnh Pú Trạng Sơn bay về trời. Từ ấy người đời có câu : ” Tuổi mười bảy bẻ gẫy sừng trâu”.

Lò Cẩm Thi kể – Ghi ở Mường Lò 1980.

Họ Khăm giữ đất giữ mường

Ngày ấy trong năm loạn rừng. Hổ báo đầy núi cao đồi thấp. Loạn giặc biên cương, mường không yên ổn làm ăn. Người Thái không chạy sang mường Pồn. Bản trong lo mắm muối bản ngoài lo gạo cơm. Dắt con chạy qua rừng, địu cháu vượt qua suối.

Những người chạy loạn sau cùng là bốn anh em Khăm Panh. Đến cửa rừng có con suối trong, có đàn cá quây quần bơi. Trong dạ phân vân , Khăm Panh bảo các em : “Ta đi đất còn muốn giữ chân, ngõ sân rồi mọc rêu xanh rêu đỏ, dành đường cho cỏ tốt um. Không có màu áo trắng áo đen hàng khuy bướm bạc làm đẹp lòng thung, vắng tiếng hát ru ngọt ngào của mẹ bồng con.”

Khăm Khiên nói :”Cái đầu phải nghĩ. Đi đừng để nốt dấu chân, chớ để tàn đóm rụng đầy lối cỏ. Lánh nạn làm dẫy nhà sàn , làm nương làm rẫy.”

Khăm Kéo vác tên cầm cung nói : “Nghĩ mà nhớ phường săn, thương dấu chân con don con dím, thương con suối thức theo trời mưa, nhớ người đi cấy tát nước ruộng mang mùi bùn bên vai.”

Khăm Lụa ngồi trên tảng đá trắng thở dài nói : “Cái lù cở trên lưng đã nặng. Nắng hôm nay héo lá héo rêu. Chàng còn muốn mang theo con mèo, dắt theo con chó, cõng cối giã gạo, chờ ngày đâm cối chày tay, nhà sàn vương khói.”

Khăm Panh thắt lại dây lưng dao nắp, sửa lại khăn vắt lên vai, nói : ” Ta đi lâu năm ắt thương mường cũ. Các em chớ vội kể nhiều lời kiêng. Hãy hướng hai mươi đèo bước gấp. Hướng đồi thấp tìm bản. Chọn núi yên rừng lặng đi theo dân mường. Tìm cây lau bóc đòng mà ăn. Gặp lúc rừng nhiều gió nhiều sương thì dựa vào vai nhau mà ngủ. Không sợ lối rình của hổ. Không sợ voi khùng đón đường. Lấy ngọn đuốc sua cọp dữ. Lấy tổ ong tổ kiến đuổi voi điên.”

Từ đó bốn anh em nhà Khăm Panh chào mường chào bản mà đi tránh loạn. Vào đến mường Mun đất lạ, Khăm Panh kéo áo Khăm Khiên bảo ra rừng hái rau rớn rau xắng, rỉ tai Khăm Kéo nói : “Ngồi lên hòn đá nghỉ sức cho khỏe chân, đưa ống tên để anh đi bắn. Bắn được con chim cánh đỏ, con chuột đuôi dài, làm bữa ăn rừng tạm qua.”

Khăm Panh bảo Khăm Lụa : “Em út chớ vội đi tìm quả chín đất lạ hay có rắn. Đi xa dễ lạc. Đầu rừng có quả sung quả vả lấy mà ăn.”

Đi mãi mà chưa tìm được nơi ở. Lương ăn đã hết phải đào củ mài củ nâu, hái rau rừng bắt ốc suối, lên núi bắn con cáo con cầy. Một hôm Khăm Panh lại tính kế: Chia Khăm Kéo Khăm Lụa đi ở mỗi người một nơi, dựng cửa dựng nhà, làm nương làm rẫy sinh sống. Khăm Panh Khăm Khiên trở về mường cũ giữ đất giữ nhà để có cách tiến lui, đối phó với giặc ngoài biên giới. Nghe ngóng giặc tràn sang hay giặc qua núi khác. Củng cố cửa nhà dành dụm của cải để khi hết giặc đón các em trở về.

Đi lâu trở về mường sân rêu nhà mốc, bản hoang vắng lặng chẳng có bóng người. Con ve kêu rầu rĩ gợi buồn. Khăm Panh đi rừng lắng tai nghe mõ trâu mường bạn, nghe vọng tiếng cồng chiêng mường xa. Nghĩ ra kế bàn với Khăm Khiên đi rủ người các nơi về hợp sức dựng mường cho giầu mạnh. Khăm Khiên nói: “Rừng có hổ chém hổ mà đi. Qua suối chém thuồng luồng mà bước.”

Một ngày nọ đến đất mường lạ, lại nghe đồn ở mường trên có nàng mắt đẹp, tóc dài , môi đỏ, mặt tròn xinh , lá trầu còn thua mềm mỏng, có nhiều tài. Nàng hát hay chim rừng quên ăn trái, cá suối ngừng bơi lắng nghe. Tên là nàng Mứn dễ thương sao ! Khăm Panh bàn cùng em hôm sau nắm cơm đi ăn đường đến đất nàng Mứn. Khăm Phanh lên tiếng:

-Nàng Mứn cho tôi gửi lời chào ! Tôi nói câu hợp lòng thì nghe, trái ý thì trách. Tôi là con trai đất cửa rừng. Người trong mường chạy loạn đã đi hết. Tôi muốn có nàng về dựng cửa dựng nhà cho ăn nên làm ra, dựng mường giầu mạnh đẹp người đẹp đất. Mường rộng chẳng thể ở một thân, cơm ăn không nỡ một mình một mâm, một bát, một đũa.

Nàng Mứn bỡ ngỡ nói nho nhỏ :

-Em là con gái mồ côi, ở đất lạ mường người, nhà cửa của người, nương rẫy của người cho làm theo. Bây giờ chàng bảo điều nên thì xin nghe. Nhưng sức gái ngắn hơi, thân phận nghèo, sợi chỉ buộc cổ tay thì có nên chăng?

-Anh trai ta chưa có người vác nước, dệt vải làm chăn, chưa có ai mở đất dựng mường, xin nàng vui lòng thuận ý!

Nàng Mứn đầu hơi cúi, búi tóc ngược sừng trâu, bước theo anh em Khăm Panh về mường. Khăm Panh Khăm Khiên lo việc rèn dao, đúc súng, làm cung nỏ, luyện tập binh mã giữ mường. Nàng Mứn được giao việc cầm quân làm nương rẫy trồng lúa ngô tích trữ lương thảo.

Nghe tiếng Khăm Panh nàng Mứn có tài nhiều người tìm về xin làm quân gia. Nàng Mứn trông coi trên một ngàn người nông binh. Dần dần đông lên quân số hàng vạn. Bản mường giầu có, nhà gỗ 9 gian gỗ lim gỗ sến. Trâu bò đàn dần lũ lũ , các kho lúa ngô đầy ắp. Nàng Mứn mua thuyền đồng vượt sông ngày lũ, sắm ghế bằng da hổ cho khách ngồi chơi.

-Chàng làm tạo mường. Nàng Mứn làm việc lớn của mường cả hai đều có tài lo việc trọng đại. Cây sú ước được đứng bên cạnh cây trám cao. Nay bản mường đã hùng mạnh giữ đất giữ mường trừ giặc. Nay người mường muốn chàng nàng kết đũa có đôi thì mới yên lòng.

Khăm Panh xúc động cảm ơn già làng rồi bàn việc cưới xin.

Cuộc họp của mường nàng Mứn nói :

-Khăm Panh lo rượu thiếu tay con gái làm men, uốn cần, giã gạo, lấy lá làm bánh giúp chàng, thiếu tay làm chăn làm đệm giúp Mứn.

Già làng cầm con dao chém phập vào cây sến nói :

-Việc này dân bản ta lo được hết!

Nói rồi giao việc cho mọi người làm ngay. Đoàn người đi săn bắn hươu nai lợn lòi hổ sơn dương về làm tiệc cưới. Khăm Khiên đi gọi hai em về dự. Khăm Lụa mừng anh trai 15 con trâu đực. Khăm Kéo mừng chị dâu 46 gánh bạc nén. Khăm Khiên lo việc giết mổ. Khăm Panh lo việc đong rượu. Nàng Mứn lo việc cơm canh đãi dân bản. Khăm Kéo lo việc nhận quà tặng. Khăm Lụa cùng trai mường lo việc hát khắp đón mời. Tiệc cưới ăn mừng, hát tới năm canh khuya, múa xòe hết tháng.

Hai vợ chồng sống hạnh phúc sinh được 7 trai 2 gái.

Mường nàng Mứn chàng Panh giầu có thịnh vượng. Các mường trên mường dưới về thăm có sẵn chum rượu 40 cần trúc. Có gạo nếp 10 năm xông khói. Nóc nhà trong mường no khói quanh năm. Tiếng đồn khắp mường xa kẻ chợ.

Khi ấy Khun Ha ở mường trên biên giới đến nhòm ngó, muốn dắt giặc ngoài đến xâm chiếm, nhưng thấy sức Khăm Panh mạnh như hổ, quân nàng Mứn đông như lá rừng, bèn giả làm người thợ bạc nói với Khăm Panh :

-Tôi muốn đến đây làm đẹp làm sang cho bản mường. Đúc vòng cổ, vòng tai, ống vôi, đánh dây xà tích, khảm khay ngà đúc chén bạc.

Một hôm Khun Ha cưỡi ngựa đeo gươm vượt suối vào mường. Bỗng nghe tiếng reo hò bốn phía tên bắn ra như ong bay, đá nhảy tưng tưng vây chặt để bắt sống. Chợt Khăm Panh đến bảo cho Khun Ha vào mường, dựng nhà gỗ lim cho ở, Khun Ha trao ngựa và gươm cho Khăm Panh , mở lò đúc bạc, đúc bàn đạp yên ngựa cho nàng Mứn.

Khun Ha ở được 9 năm , kiếm cách lấy được Khăm Xao là con gái Khăm Panh làm vợ. Khi Khăm Panh nàng Mứn già yếu, Khun Ha nghĩ kế chiếm mường lấy lại ngựa quí và gươm báu. Khun Ha bắt Khăm Xao mang đi. Giữa đường Khăm Xao ăn lá ngón chết.

Khăm Panh nàng Mứn biết được âm mưu của Khun Ha đón giặc ngoài về cướp mường, liền cho mọi người chuyển vào rừng xa lánh vào núi. Khun Ha trở lại thấy mường vườn không nhà trống bèn cho quân lập trại kín mường.

Khăm Panh giữa rừng ốm rồi chết. Nàng Mứn cầm quân vỡ đất thung dài. Khăm Khiên Khăm Kéo Khăm Lụa có trên 5000 quân. Sau khi có đủ lương thảo vũ khí, họ đưa quân về đánh đuổi Khun Ha. Nàng Mứn cưỡi ngựa hồng đi đầu, đội khăn tang, mắt sáng quắc, Khăm Khiên từ phía trên đánh xuống, Khăm Lụa từ phía phải đánh sang.

Khun Ha biết tin ra chặn quân nàng Mứn. Nhưng sau giả vờ lui, nàng Mứn đuổi theo bị quân mai phục trong hẻm núi bắn ra, tên thuốc độc trúng tay, ngựa nàng Mứn vẫn xông lên, kiếm vẫn chém giặc. Bỗng nhiên nàng hoa mắt cầm không vững dây cương, Khăm Khiên Khăm Lụa phải cứu đưa về đến nhà thì nàng chết.

Quân Khăm Khiên bắn súng vào phía trước trại Khun Ha. Khăm Kéo đưa quân ập đến từ phía trái. Khăm lụa kéo quân từ phía dưới lên. Đạn vào tên ra mù mịt. Khun Ha đóng cửa thành cố thủ. Chẳng bắt nổi Khun Ha , họ cho rằng hắn có phép ma. Khăm Khiên nằm mơ thấy anh chị Khăm Panh nàng Mứn báo mộng rằng nó chẳng có phép ma quỉ gì đâu, các em cần lo có nhiều lương ăn quân giỏi là thắng. Muốn thắng nó : “Người và của là cái khôn đi trước.” Sáng ra Khăm Khiên báo tin này cho hai em và dân mường biết để quyết đánh giặc đến cùng.

Được tin Khun Ha lấy vợ kế. Quân nó ăn mừng nhà mới, tối mắt rượu cần với mâm thịt đầy, mê say hát khắp gái trai, đốt lửa múa xòe te tởn. Anh em Khăm Khiên và dân bản đi lẻn đêm đánh úp giặc. Giặc đông như lá rừng giết không xuể. Khăm Kéo bị trúng đạn. Khăm Khiên bị giặc bắt. Khăm Lụa rút quân đi rừng xa chuẩn bị lực lượng để có dịp trở lại đánh. Khun Ha cho quân đi càn quét giết hết ba họ nhà Khăm Panh.

Khăm Lụa chuẩn bị một nghìn gà lông vàng để quân tướng ăn thề chiếm lại mường giữ đất, một nghìn gà lông trắng cúng tổ tiên.

Khun Ha làm tạo quan cai quản mường này. Dân chúng phải đến làm cuông làm nhúc, làm ruộng nương nộp cá ngon, sừng nai, mật gấu, mật ong cho nhà tạo. Con gái đẹp đến múa xòe hầu tiệc rượu, người già nộp rượu cần.

Nhà Khăm Panh còn một nàng dâu thứ tư là nàng Danh trốn thoát. Nàng đang có thai, khấn bố mẹ chồng phù hộ. Khăm Panh hóa thành con bướm vàng, nàng Mứn hóa thành con bướm trắng bay về đậu vào vai vào tóc con dâu. Nàng Danh yên lòng.

Khun Ha đã già yếu giao cho con trai là Khun Ý Lân thay cha làm tạo mường, bắt dân chúng phải lấy gỗ sến, gỗ táu làm nhà sàn 10 gian, phải nộp một trăm trâu đực để cúng Thần rừng, một trăm con lợn tạ để cúng Thần núi. Ai không có phải phạt đánh trăm gậy, ai chống lại phải treo cổ.

Khăm Lụa rút quân đi ở mường xa được tin Khun Ý Lân đang cúng vía cho bố, đang bận khách chín bản mười mường, đang mải say rượu thịt, gái xòe, bèn lệnh cho quân đánh úp lúc trâu còn ngủ, lúc chó còn mải gặm xương. Súng nổ kêu vang núi. Tên bắn như mưa. Hai bên quân chết máu chảy thành suối. Quân giặc đông phản kích. Khăm Lụa bị trúng tên thuốc độc chết. Khun Ha mừng thầm là họ Khăm Panh chẳng còn ai để trả thù nữa.

Được tin Khun Ý Lân đang bộn bề tang gia bối rối, đã đến lúc trả hận, Khăm Khoong đêm kéo quân về kín mường, chật bờ suối. Trong thành có quân làm nội ứng đốt nhà. Ngọn lửa cháy rực sáng quắc những lưỡi dao lưỡi kiếm. Khun Ý Lân vừa rời khỏi chân thang đã bị Khăm Khoong chém đầu văng xuống chân ngựa. Cả nhà họ Khum Ha chết thui.

Cồng chiêng vang đầu núi, trống gọi vọng sân mường, Khăm Khoong mặc áo lụa đỏ lưng thắt khăn xanh, tay kiếm hai sải, cưỡi con ngựa hồng cùng dân mường mừng vui thắng trận.

Dòng họ Khăm đã về làm tạo mường của mình, trâu ăn cỏ đồi cao không còn sợ hổ, sợ beo. Người dân mường không sợ mất đất về tay giặc ác.

Mường Ôm mường Tum Hoàng ở châu Tùng Lăng, Hoàng Nham, mường Óc, mường Ác, mường La Bộ Tây Vu nước Văn Lang là quê hương của người Thái đen.

Con cháu Tum Hoàng đã từng phò Thục Chế Thục Phán và Tây Vu Vương chiếm đóng các đồn chốt đôi bờ nậm Ta nậm Tao ở Bộ Kỳ Hưng và Tân Hưng trong cuộc chiến tranh Hùng -Thục và kháng chiến chống Lộ Bác Đức. Do đó họ từng biết nơi đây là miền đất đai màu mỡ, sản vật trù phú, dân cư người Xá, người Thái trắng, người Thái Lự, người Sinh Lão thưa thớt.

Ngày ấy người Thái đen ở bộ Tây Vu bùng nổ dân số họ chia nhau đi tìm mường ăn đất sang phía đông Vân Nam, Quí Châu, Hùng Sở Bộ Võ Định thành người Thái Lự Choang ngày nay.

Một bộ phận người Thái đen do Tạo Xuông Tạo Ngần cầm đầu thả bè xuôi nậm Tao xuống đại đồn cũ của Thục Phán và Tây Vu Vương ở Văn Yên Trấn Yên lập mường Min ròi theo ngòi Thia ngòi Lâu vào cánh đồng bồn địa Văn Chấn lập mường Lò (Nghĩa Lộ). Tại đây người Xá đã giữ đất đánh lại Tạo Xuông, Tạo Ngần quyết liệt nhưng không giữ nổi phải bỏ chạy lên miền thượng nậm Ta Than Uyên, Quỳnh Nhai.

Tạo Xuông Tạo Ngần về trời, truyền ngôi cho bảy con làm tạo là Tạo Đúc , Tạo Đẩu, Tạo Lò Ly, Tạo Lặn Lỳ, Lạng Ngang, Lạng Quang và cháu là Lò Lạng Chượng làm Tạo Mường Lò tái tthiết lại cơ ngơi của ông bà Ải Lậc Cậc xưa. Lò Lạng Chượng xây dựng lực lượng quân đội Thái đen hùng mạnh tiến hành một cuộc chiến tranh 20 năm chiếm bản chiếm đất của người Xá hai bộ Tân Hưng và Kỳ Hưng lập mường ăn mường rộng khắp. Lò Lạng Chượng nói :

-Trước đây ông bà Ải Lậc Cậc, ông bà Tạo Cập Ý Kè đã khai mở các mường nhất Thanh nhị Lò tam Than tứ Tắc cho con cháu. Chúng ta đã giành lại mường Lò chưa đủ, phải tiến lên đánh đuổi người Xá giành lại các mường tiếp theo !

Quân dân Thái đen Mường Lò đồng thanh hô lớn :

-Tạo Lò sáng suốt vạn vạn tuế !

Thoạt tiên Lò Lạng Chượng đem quân đánh người Xá cướp mường Mon (Tú Lệ ), mường Khin Than Uyên , mường Khao Văn Bàn. Đánh đến đâu Lò Lạng Chương đem dân Thái đen đến ở lập tạo quản mường ăn mường. Thừa thắng Lò Lạng Chượng tập trung quân đánh chiếm mường Chiến, vượt nậm Ta chiếm Tạ Bú. Chiến sự nơi đây rất ác liệt vì thế có tên mường Chiến. Quân Xá do Khum Quằng chỉ huy đánh quân Thái đen thiệt hại nặng trên con đường hẻm núi chạy ra sông Nậm Ta. Xác quân Thái đen làm mồi ăn cho gấu chó lợn rừng xơi xả láng. Phải nhờ quân tiếp viện từ mường Lò, quân Thái đen mới chiếm được mường Chiến. Lò Lạng Chượng đánh thắng Khun Quằng, kéo quân lên mường Muỗi. Tại đây quân Thái đen vấp phải sự chống trả của người Xá đứng đầu là Ăm Poi dân tộc Kháng. Không thắng nổi, Lò Lạng Chượng giả vờ hòa hiếu xin cưới con gái Ăm Poi là nàng Pha Nhăng xinh đẹp làm vợ, lấy tình con rể trọng đãi bố vợ làm cơ hội giết chết Ăm Poi. Hôm ấy con rể bố vợ chúc nhau uống rượu say ngà ngà rồi thách nhau đấu kiếm. Con rể hỏi bố vợ :

-Bố đấu hay rượu đấu?

Nhân Ăm Poi vấp hòn đá mất đà, Lò Lạng Chượng phóng đường gươm trúng tim Ăm Poi chết ngay! Nàng Pha Nhăng vừa đau đớn vừa uất ức chỉ tay vào mặt Lò Lạng Chượng, mắng :

-Mày là thằng chồng giả khốn kiếp ! Mày mưu kế lấy tao làm vợ và mượn rượu giết bố tao để cướp mường Muỗi! Ải Trạng Noi trên trời xuống sẽ trừng phạt mày!

Tức thì Lò Lạng Chượng phát điên tuốt gươm chém bay đầu người vợ không một chút run tay!

Nhờ gian kế đó, Lò Lạng Chượng lấy được mường Muỗi. Ngày nay ở Lai Châu vẫn còn núi Ăm Poi, nơi tù trưởng bị giết, ao cá và những hòn đá buộc voi. Người Thái và người Kháng địa phương vẫn thờ cúng người anh hùng Ăm Poi và gọi ông là Thần Pú Châu (Chủ đất mường ).

Lò Lạng Chượng định chiếm mường É, mường Quài ( Tuần Giáo ) thì bị mắc lừa của tướng người Xá trá hàng là Lường Khun dân tộc Kháng làm nội phản, tập hợp người Xá chặn quân Thái đen không vào được mường Thanh. Lò Lạng Chượng bị thất bại nặng nề. Trong một trận lừa quân Thái đen vào tiếp quản mường, đang tiệc rượu thịt và gái xòe say sưa, quân Kháng đánh úp giết sạch 5000 quân Thái Đen. Lò Lạng Chượng thoát chết bèn cấu kết với người Lự ở mường Thanh và Phông sa lỳ Bộ Ai Lao, gặp tù trưởng, nói :

-Chúng ta cùng con cháu của Then , ông bà Ải Lậc Cậc, ông bà Tạo Cập Ý Kè cùng trong 5 giống Thái là anh em như thể chân tay, cùng nhau hiệp sức giải phóng mường Then đất tổ làm chủ thành Sam Mứn của ông cha để lại!

Tù trưởng người Lự cắt tiết gà trống tơ uống máu ăn thề cùng Lò Lạng Chượng bày binh bố trận trong đánh ra ngoài đánh vào hạ thành Sam Mứn, mới thắng Lường Khun lấy được mường Thanh.

Sau 20 năm vừa lập mường vừa chiến tranh ròng rã, Lò Lạng Chượng tiến quân từ mường Lò đến mường Thanh, chiếm mường Chiến mường Trại mường Bú… vào mường La qua Khau Hào tới mường Muỗi ( Thuận Châu ) sang mường É mường Quài ( Tuần Giáo ) xuôi theo suối xuống dọc sông Mã sang Bộ Ai Lao (Thượng Lào ) qua Hua Cảnh , Long Chuông vào lòng Chảo mường Then, lên làm chúa Thái đen hai Bộ Kỳ Hưng và Tân Hưng . Người Thái đen Bộ Tây Vu thiên di đến Tây Bắc Việt Nam ngày nay từ đấy.

(Tổng hợp từ Quấn Tố Mường, sách Nguồn gốc lịch sử các dân tộc biên giới phía Bắc Việt Nam và các tài liệu khác)

Ngày ấy ở Châu Yên Sơn La có động Ngưu Hống. Chúa động là một tạo mường Thái có tên là Ngưu Hống. Ngưu Hống nói với quân gia :

-Người Thái chúng ta dù áo trắng áo đen sống ở đâu cũng là con của Then! Then cho chúng ta quyền thay Then hành đạo trên trần gian. Từ mường Then, mường Ôm, mường Tum Hoàng cha ông ta đã lập quốc. Năm 258 trước công nguyên Thục Phán đã lập nước Âu Lạc hòa hợp Âu Việt và Lạc Việt chống Tần Hán xâm lược! Mới đây lập nước Myanma với triều đình Thái Shan. Thời nhà Đường đô hộ An Nam còn mạnh, Lò Lạng Chượng xưng chúa mường Then mà chưa dám xưng vua, lập xứ Thái mà chưa dám lập quốc. Lúc này, Đại Việt đang thịnh, Nhà Lý cầm quyền. Thái Ngưu Hống ta chưa có cơ hội lập quốc. Để tiến tới lập quốc, trước tiên Ngưu Hống ta phải liên kết chặt chẽ với chúa Ai Lao thống nhất văn tự Thái – Lào, phát triển kinh tế, nâng cao dân trí, tích trữ lương thảo, sản xuất vũ khí, huấn luyện quân đội tượng binh kỵ binh hùng mạnh. Về sách lược trước mắt ta đi bài thần phục Nhà Lý Đại Việt, triều cống ngà voi sừng tê da xương hổ mật gấu trầm hương vàng bạc thật nhiều, tung giám điệp nằm vùng kẻ chợ Thăng Long. Về chiến lược khôi phục nước Âu Lạc nghìn xưa của người Thái -Tày, không thể để chú em Kinh Keo làm vua mãi mãi! Chúa động Ngưu Hống một ngày không xa phải làm vua Đại Thái trị Đại Việt và phạt Đại Tống.

Quân gia động Ngưu Hống đánh trống đồng Sông Đà tung hô ầm ĩ :

-Chúa Ngưu Hống vạn vạn tuế!

Mùa xuân tháng 2 năm 1067 Đinh Mùi, chúa Ngưu Hống và chúa Ai Lao được gián điệp Kẻ Chợ cho biết Triều Lý Thái Tông rối ren có loạn Tam Vương tranh ngôi vua, cơ hội đánh Đại Việt đã đến, nhưng chưa tin bèn cưỡi voi chở báu vật xuống Thăng Long cống nạp, đi theo bờ hữu ngạn sông Đà. Vào Thăng Long, Trước bệ rồng, hai chúa Ngưu Hống và Ai Lao đồng thanh tấu:

-Muôn tâu Bệ hạ! Chúng thần theo truyền lệ hành trình không quản ngại núi đèo tới đây chúc mừng Bệ hạ vạn vạn tuế! Gọi là có chút quà nhỏ mọn, đặc sản rừng núi ngà voi, sừng tê, da xương hổ, mật gấu, hương trầm , vàng bạc, thổ cẩm, tất cả ba mươi sáu hòm kính biếu!

-Khá ! Các ái khanh trung thành với trẫm giữ lễ nghĩa nghìn xưa đúng như Thục Phán chầu vua Hùng Duệ! Trẫm cảm tạ ! Nhân đây trẫm phong cho hai ái khanh là chủ trấn lộ Sông Đà và Ai Lao.

-Người này có sức nhổ cây cổ thụ mười người ôm làm gậy đó ! Tướng quân mới lập công giết một vương, nhốt cũi hai vương khởi nghịch vừa qua!

Chúa Ngưu Hống và Ai Lao tham quan Hoàng thành Thăng Long, thăm ba sáu phố phường Kẻ Chợ rồi trở về xứ Thái theo đường bộ Xuân Mai, Hòa Bình, Sơn La, mường Then, Phông Sa Lỳ. Chuyến đi của hai chúa đạt được mục đích gián điệp vẽ bản đồ quân sự hành binh đánh Đại Việt trong những năm tới .

Năm Tân Mùi 1151 thời Lý Anh Tông, Tướng quân Lê Phụng Hiểu đã mất, Ngưu Hống và Ai Lao cất binh đánh Đại Việt tiến vào Lâm Tây đốt cướp giết hiếp vùng Bất Bạt Quảng Oai Tùng Thiện Thạch Thất Phúc Thọ. Trước hành động tàn bạo dã man của quân đội Ngưu Hống – Ai Lao, một con châu chấu chạy hỏa hoạn đậu trên đầu voi của chúa Ngưu Hống, hỏi:

-Ngạn ngữ Thái có câu “Xá anh, Kinh em chú”. Nhưng sao đốt cướp giết hiếp người Kinh khủng khiếp thế?

-Chiến tranh mà! Đốt cướp giết hiếp là niềm vui thú của lính mà!

Vua Lý Anh Tông đích thân chỉ huy quân đội Thăng Long và các lộ Tây Bắc Đại Việt Kỳ Hưng Hưng Hóa đuổi quân Thái – Lào về ngọn nguồn sông Đà.

Năm Đinh Mão 1159 Ngưu Hống và Ai Lao lại cất binh đánh Đại Việt theo hai đường Mộc Châu Hòa Bình Chương Mỹ và theo Sông Đà đến Ngã Ba Ba Hạc. Triều đình nhà Lý cử tướng Tô Hiến Thành đem đại binh đánh dẹp. Chật vật lắm mới đuổi được Ngưu Hống – Ai Lao về mường của họ.

Thua hai trận chưa đến được Kẻ Chợ, Ngưu Hống- Ai Lao trở về càng tăng cường tuyển quân chọn tướng ráo riết chuẩn bị cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt lần thứ ba sống mái một phen tỏ chí anh hùng khai quốc Đại Thái: Thái Trắng Thái Đen Thái Lự anh trưởng thiên hạ!

Lợi dụng lúc nhà Lý suy vong nhà Trần ra đời, lòng người hoang mang nghiêng ngả, Ngưu Hống Ai – Lao lại tiến đánh miền Tây Thăng Long, Các vua Trần Thái Tổ, Trần Thái Tông tiếp nhau cử binh hùng tướng giỏi ăn không ngon ngủ không yên, mới đánh đuổi được Ngưu Hống Ai Lao về mường của họ. Trận đánh ở Ngã Ba Lời chỗ sông Đà và sông Hồng gặp nhau, thủy quân Nhà Trần do Đô Dù Trần Quang Đạo chỉ huy, đóng tại xóm Tuần kẻ Lời đã đánh tan thủy quân Ngưu Hống lấy đầu tướng giặc Lường Khun tế tại đền Nhà Bà bên ghềnh Lời. Trần Quang Đạo bắt tù binh Ngưu Hống đắp bờ chống úng và chống hạn cho đồng Lời. Họ dùng tre đóng cọc rồi đắp đất xắn bằng mai, từ ấy đến nay mang tên Thái gọi là Bờ Pheo.

Nhà Trần bắt đầu ra chỉ dụ các tù trưởng Thái Trắng, Thái Đen, Thái Lự, Xá, Tày an dân thái mường sẽ được làm phò mã và được phong pú châu mang họ nhà vua. Do đó các phiên lộ Sông Đà, Hưng Hóa, Tuyên Quang mới được bình yên. Con cháu Ngưu Hống- Ai Lao ở mường Then vẫn nuôi chí Đại Thái nhưng quay về sông Mê Công thôn tính các bộ lạc lập nhà nước Thái Lạng Sạn ở Lào, Ayuthawa, Sukhôtai, La Na ở Thái Lan thế kỷ 13-14 .

Lò Cẩm Tú kể- Ghi ở Mường Lò 1980.

Ngày ấy tạo tìm mường và ăn mường, người Thái trắng ở Phông Sa Lỳ Bộ Ai Lao đã kéo sang cao nguyên Mộc Châu ( Sơn La) Bộ Kỳ Hưng lập ra mường Muôi. Cháu hai mươi đời của tạo mường Muôi là Sa Khả Tham, một chàng trai khôi ngô tuấn tú văn võ song toàn lấy nàng Tông Va xinh đẹp tài hoa hát khắp và dệt thổ cẩm làm vợ. Hai người đang chung chăn gối nồng nàn hạnh phúc thì giặc Minh đã ồ ạt xâm lược Đại Việt. Quan cai trị nhà Minh đã sức xuống mường Muôi nạp sừng tê ngà voi. Sa Khả Tham cầm tay vợ nói :

-Đất nước bị nhà Minh xâm lược rồi. Gái thời bình, trai thời loạn. Anh phải xa em để lo việc cứu nước cứu mường. Em thấy thế nào ?

Nàng Tông Va không cầm được nước mắt nói :

-Từ ngàn xưa người Thái mình vẫn thế. Có giặc là nam nhi lên đường cầm binh đao. Vợ chồng phải xa nhau là lẽ thường thôi! Em ở nhà trông nom mẹ già dệt thổ cẩm đợi anh về trong ngày giặc tan.

Nói rồi nàng tiễn chồng cưỡi voi , khoác nỏ, đeo kiếm , cầm giáo ra đi, đã ra khỏi bản, vẫn còn ngoái đầu nhìn theo cho đến khi con voi cõng chồng khuất trong rừng cây.

Sa Khả Tham đến nhà tạo mường Muôi thì thấy Chủ mường đang tức giận xé tờ sắc thu ngà voi sừng tê của giặc. Sa Khả Tham cả mừng, bàn bạc với Chủ mường kế hoạch đánh giặc Minh giữ nước. Chủ mường phấn khởi lắm bèn cho nổi trống đồng Sông Đà dựng cờ khởi nghĩa. Thanh niên trai tráng các bản kéo về đầy mường Muôi uống máu ăn thề đánh giặc giữ mường cứu nước. Sa Khả Tham được cử làm Tướng quân Thái Mộc Châu chỉ huy năm nghìn tay đao hùng dũng tiến đánh châu phủ thắng lợi. Sa Khả Tham cho giết trâu làm cỗ tế Thần Linh và ăn mừng. Trong lúc đang vui vẻ thì có người áo đỏ phi ngựa tới nói :

-Hỡi các bạn dân tộc Thái anh em! Tôi là người Tày Đại Từ Thái Nguyên là sứ giả của phong trào Hồng Y cứu nước đã giấy lên từ 1-10- 1410 tại quê tôi. Chủ tôi có lời chào anh em thân thiết cùng gọi gà là cáy, lợn là mu, cùng câu thề nghìn xưa “Tức Hác pác pi” ( Đánh Hán trăm năm !), và kêu gọi anh em tham gia phong trào Áo Đỏ. Nếu anh em nhất chí thì xin mời vị chủ tướng của anh em lên nhận một cái áo đỏ của chủ tôi kính biếu!

Sa Khả Tham lên nhận và mời sứ giả vào lầu phủ Mộc Châu thiết đãi cơm rượu, hỏi thêm tin tức hoạt động của phong trào Áo Đỏ đã lan rộng khắp các vùng thượng du Việt Bắc Tây Bắc. Sa Khả Tham nói :

-Ta hiểu một cây làm chẳng nên non. Do đó ta xin gia nhập phong trào Áo Đỏ cứu nước cứu mường. Ông về nói với chủ phong trào hộ ta. Nhân đây ta gửi ông mang về tặng chủ phong trào một cái sừng tê chiến lợi phẩm đầu tiên của nghĩa quân Thái Sơn La.

Sứ giả rất xúc động nhận sừng tê rồi từ biệt trở về Thái Nguyên báo cáo với chủ. Từ ấy sứ giả là con thoi liên lạc của phong trào giữa Thái Nguyên với Sơn La.

Năm 1418 Lam Sơn Thanh Hóa khởi nghĩa, Lê Lợi là Minh Chủ. Lê Lợi cử sứ giả ra Đông Quan đón Nguyễn Trãi, lên Việt Bắc đón các thủ lĩnh phong trào Áo Đỏ Hoàng Đại Hòe ( Lạng Sơn ), Bế Nhật Thiệu (Cao Bằng), Lưu Nhân Chú (Thái Nguyên), Ma Doãn Đào (Hà Tuyên), lên Tây Bắc đón Sa Khả Tham và Tam Đái Bạch Hạc đón Trần Nguyên Hãn. Nhưng hai anh em Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn đã vào Lam Sơn mà Lê Lợi vẫn chưa biết, để cấp dưới phân công Nguyễn Trãi làm thư kí kho, Trần Nguyên Hãn làm người đi thả bè.

Nhận được hiệu triệu của Lê Lợi, Sa Khả Tham đã kéo quân xuống Lam Sơn tham gia Hội thề Lũng Nhai. Sa Khả Tham cùng Trần Nguyên Hãn đem nghĩa binh đánh phía Nam giải phóng Nghệ Tĩnh, Tân Bình, Thuận Hóa rồi tiến ra Bắc đánh thắng giặc ở Trúc Động ,Tốt Động và bao vây Thành Đông Quan đóng tại trại Bồ Đề. Sau chiến thắng Xương Giang và Chi Lăng, Sa Khả Tham tháp tùng Lê Lợi vào thành Đông Quan dự Hội thề đầu hàng của Vương Thông.

Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (1418-1427) toàn thắng, Lê Lợi lên ngôi Hoàng Đế đã phong chức thưởng công cho Sa Khả Tham là một trong 27 anh hùng khai quốc, làm Tuyên úy tổng quản phiên lộ Đà Giang và được mang họ vua. Sa Khả Tham đón mẹ già và nàng Tông Va lên phủ Tây An hưởng vinh gia hiển quốc. Người Thái Trắng Thái Đen người Xá Tây Bắc vui hưởng thái bình.

Cầm Ngọc Tú kể- Ghi ở Mường Lò 1980.

Ngày ấy ở mường Trắng nay là xã Thọ Sơn Anh Sơn Hà Tĩnh, hai vợ chồng người Thái sinh được cậu bé khôi ngô tuấn tú, mặt vuông chữ điền, tai to mắt sáng, tướng mạo quan sang. Cha mẹ đặt tên Thái là Khả Lam, thầy đồ đặt tên chữ là Trương Hán. Cha mẹ nuôi dạy chu đáo cho học chữ Thái chữ Hán Nôm.

Lớn lên , Trương Hán được bổ nhiệm chức tù trưởng tộc Thái ở Anh Sơn. Thực hiện đạo lý làm người quân tử, Trương Hán phấn đấu thành một tù trưởng hùng mạnh, quản dân an mường thái. Tù trưởng có đội dân binh 5000 người thiện nghệ cung tên đao kiếm, khiển voi cưỡi ngựa. Lương thảo tích trữ mấy chục kho. Voi ngựa trâu vài nghìn con.

Đất nước đang thanh bình, Hồ Quí Ly cướp ngôi nhà Trần. Mượn cớ phù Trần diệt Hồ, nhà Minh xâm lược Đại Việt.

Trương Hán ráo riết chuẩn bị lực lượng chờ có minh chủ phất cờ để theo phò cứu nước.

Quân Minh tràn đến lập đồn Bồ Đằng , Trà Lân. Trương Hán tức mắt lắm, nhưng vẫn phải ngậm bồ hòn làm ngọt với giặc, ra vào cửa quan Minh để biết người biết mình mà lượng sức đối phó giữ yên mường Trắng.

Được tin Lam Sơn khởi nghĩa, Minh chủ Lê Lợi tiến quân vào Anh Sơn, Trương Hán trống dong cờ mở, dẫn dân mường nghênh đón, giết trâu mở tiệc rượu thịt thiết đãi nghĩa quân. Trương Hán rước Lê Lợi về nhà sàn mái rùa tranh vàng của mình bái yết. Trương Hán tâu :

-Bẩm Minh chủ ! Thần dân có năm ngàn quân binh, một ngàn voi ngựa, hai ngàn trâu, ba mươi sáu kho thóc lúa xin được tham gia nghĩa quân khôi phục giang sơn xã tắc!

-Đa tạ ! Xin mời tù trưởng vào Lam Sơn tụ nghĩa trừ Minh phục quốc!

Trương Hán lấy tấm bản đồ đồn thành Trà Lân, Bồ Đằng tự vẽ của mình chưa ráo mực dâng lên Lê Lợi. Dưới ánh đèn khuya, Trương Hán chỉ dẫn cho Minh chủ biết đường đi lối lại các hệ thống phòng thủ của địch, rồi cùng Lê Lợi bàn bạc kế hoạch phối hợp nghĩa quân và dân binh mường Trắng tấn công đánh úp đồn thành Bồ Đằng và Trà Lân. Minh chủ nói ra, tù trưởng nói vào , đều đồng kiến đồng lòng phá giặc. Việc quân đã hòm hòm thì một tốp dân binh của Trương Hán dẫn về nạp một tên thám báo của giặc vừa đột nhập vào mường Trắng. Lê Lợi và Trương Hán tra xét tên gián điệp khai thác được nhiều tin tức thống nhất với kiến đồ quân sự địch và biết thêm lực lượng mới điều động đến Trà Lân của chúng.

Sáng hôm sau, Trương Hán cưỡi voi cùng một trăm gia binh dắt ngựa thồ rượu, gạo nếp, và chục con trâu, mỗi gia binh dắt dao găm trong thắt lưng áo che ngoài, đến đồn thành Bồ Đằng cống nạp. Trương Hán giơ thẻ bài được phép vào thành. Viên quản binh Bồ Đằng nhận lễ vật sai giết trâu xôi gạo nếp làm cỗ Thái khao lính. Gia binh mường Trắng và quân Minh ngồi xen nhau các mâm. Gia binh Trương Hán chúc rượu quân Minh giót đầy bát liên tiếp. Trương Hán chúc rượu các tướng Minh. Tất cả say sưa túy lúy ngả nghiêng bên những gái xòe hát khắp đệm sáo pí pặp.

Trong trại rượu thịt lu bù. Ngoài trời bỗng nổi cơn dông sấm chớp ầm ầm. Một nghìn kị binh của Lê Lợi và mường Trắng phi tới. Nghĩa quân bắn pháo hiệu của địch, lính gác cổng thành mở cửa. Những vó ngựa rầm rập vào thành. Quân Minh đứa say ngủ như chết, đứa rượu vào lời ra nói huyên thiên. Gia binh của Trương Hán vung dao găm đâm giặc vô tội vạ. Nghĩa quân Lê Lợi và mường Trắng xông vào vung kiếm chém phứa. Những tướng Minh say sỉn trở tay không kịp bị Trương Hán và gia binh hầu rượu đâm chết tại chỗ. Mây dông vừa tan thì đồn Bồ Đằng bị san phẳng.

Một tên giặc phi ngựa chạy về đồn Trà Lân xin tiếp viện. Ổ mai phục của Nghĩa quân trên đường Bồ đằng – Trà Lân lặng im cho hắn đi. Tướng Minh đồn Trà Lân nhận tin, cất binh mã tức tốc ra đi, chỉ để lại một ít quân giữ thành. Chúng vừa đi được nửa dặm thì một ngàn kị binh của Lê Lợi và mường Trắng bắn pháo hiệu của địch, lính giữ thành Trà Lân mở cổng cho họ tràn vào giết sạch giặc chiếm thành.

Quân Trà Lân tiếp viện vào ổ phục kích của quân Lam Sơn ăn mũi tên đồng ba cạnh người ngựa chết như ngả rạ. Bọn sống sót quay đầu ngựa chạy về Trà Lân vào cổng thành đứa nào đứa ấy ăn mũi tên đồng ba cạnh người ngựa ngã lăn. Nghĩa quân phóng hỏa Thành Tà Lân cháy nổ như đốt đồi.

Kết cục nghĩa quân Lê Lợi và dân binh mường Trắng Trương Hán đại thắng diệt gọn sáu ngàn quân Minh ở hai đồn, tạo thế chủ động tiến công trên chiến trường, nức lòng quân đân cả nước:

( Bình Ngô Đại Cáo- Nguyễn Trãi)

Từ ấy, tù trưởng Trương Hán hiến hết gia tài cho Lê Lợi và đem năm nghìn quân theo Lê Lợi chiến đấu cho đến ngày khởi nghĩa Lam Sơn toàn thắng. Bình công thưởng phạt , vua Lê Lợi phong Trương Hán chức quận công. Ngày nay ở mường Trắng vẫn còn miếu thờ Khả Lam quận công.

Cầm Ngọc Tú kể- Ghi ở Mường Lò 1980

Động Ma Sa ở châu Ninh Viễn phiên trấn Đà Giang nay thuộc Lai Châu. Chúa động Ma Sa là Đèo Cát Hãn tù trưởng tộc Thái con cháu nhiều đời họ Đèo làm tạo mường.

Đèo Cát Hãn say mê sử Thái hâm mộ cha con Thục Chế Thục Phán chủ Bộ Ai Lao và Tây Vu hùng mạnh thời Hùng Vương, dám đương đầu với Tản Viên Sơn Thánh phúc thần Lạc Việt và Tần Thủy Hoàng ở phương Bắc lập nước mẹ Âu bố Lạc xây Loa Thành chế nỏ thần đánh tan 50 vạn quân Tần làm cho hiệu úy Đồ Thư mất vía mà tự sát. Thục Phán đã khẳng định ý thức tự cường tự chủ lập quốc của người Âu Việt Thái -Tày vẻ vang muôn thuở. Đèo Cát Hãn nói :

-Làm trai Thái không bằng Thục Phán thì đếch ra người !

Thế là chàng học theo Ngưu Hống tiếp tục một phen tranh giành quyền lực đất nước với người Kinh. Chàng tự xưng chúa động Ma Sa, xây dựng quân đội, sản xuất vũ khí tích trữ lương thảo, đi vận động các tù trưởng Thái Xá Lự Lào… cát cứ miền thượng lưu sông Mã Sông Đà Sông Thao, ngồi xem Lê Lợi và Vương Thông đánh nhau như hai con hổ một con chết một con què thì xuống núi thịt cả đôi. Do đó hai viên tướng gián điệp ngoại giao nhà Minh là Mã Kỳ và Sơn Thọ thân chinh đến gặp chúa động Ma Sa trao bằng sắc của vua Tuyên Đức và quà ngọc lụa, chàng nhận nhưng chẳng hành động gì, mà lặng im nuôi sức đợi thời. Chàng sang gặp chúa Ai Lao đề nghị liên minh thì lại thấy Mã Kỳ và Sơn Thọ trao bằng sắc của vua Tuyên Đức, quà ngọc lụa và đề nghị liên kết dẹp loạn Lam Sơn. Chờ cho Mã Kỳ Sơn Thọ xong cuộc du thuyết chàng vào cung bái yết thì chúa Ai Lao nói :

-Làm cây tre cong theo chiều gió thôi!…

-Bán anh em xa đổi lấy láng giềng gần. Ông về nói với minh chủ Lê Lợi cứ yên tâm đánh Hán. Ai Lao bằng mặt không bằng lòng với thằng nhãi con Tuyên Đức đâu.

Biết được bụng dạ chúa Ai Lao, Đèo Cát Hãn đến Bồn Man gặp tù trưởng Thái Cầm Quí đề nghị liên kết với động Ma Sa ngọa sơn xem hổ. Cầm Quí cắt tiết gà trống tơ hòa chén rượu uống thề với Đèo Cát Hãn tất cả vì Đại Thái trên hết.

Cuộc kháng chiến chống Minh 10 năm của khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi. Một con hổ chết. Một con không què mà thành mãnh hổ. Đèo Cát Hãn hoang mang một thời gian, nhưng nghe tin Lê Lợi giết 27 vị anh hùng công thần khai quốc như quan tư đồ tổng quản binh Trần Nguyên Hãn thì chàng phá cười lớn :

-Con hổ què thật rồi! Ha Ha!

Chàng ra lệnh cho các tù trưởng nậm Ma nậm Tà nậm Tao không cống nạp cho triều đình Lê Lợi. Chàng cử sứ giả sang Cao Bằng Thái Nguyên xin liên kết với cựu thần Lam Sơn là Bế Khắc Thiệu và tù trưởng Nông Đức Thái chống Triều đình Thăng Long kẻ chợ. Họp các tù trưởng tại động Ma Sa Đèo Cát Hãn nói :

-Nhà Minh không công nhận Lê Lợi là vua, đang thúc ép Lê Lợi lập vua họ Trần. Vua Chiêm và Ai Lao tăng cường quân lực đề phòng bành trướng của Lê Lợi vừa lập phủ Trấn Ninh. Lê Lợi cắt chân tay giết 27 vị anh hùng lập quốc và chu di tam tộc. Do đó công thần Bế Khắc Thiệu cũng đã cát cứ Việt Bắc cùng ta chống Triều đình. Bọn Trần Phong, Lương Nhữ Hốt tay sai Nhà Minh đang săn đón Tuyên Đức lập triều đình nhà Trần diệt Lê Lợi. Thăng Long đang rối ren cực độ. Thời cơ nghìn năm có một chúng ta phải tranh thủ luyện quân tập trung binh lực đánh xuống Thăng Long giải phóng Đế đô Cổ Loa Thái-Tày xưa, thiết lập nhà nước Đại Thái của chúng ta! Hãy tiến lên! Toàn thắng ắt về ta!

Tai mắt của Tổng quản tuyên úy phiên trấn Đà Giang, Qui Hóa Sa Khả Tham, tay chân của quận công Sa Nam và bộ máy tình báo của Triều đình Lê Lợi đều biết âm mưu và hoạt động của các lực lượng chống đối trong và ngoài nước. Sau khi xử lý bọn Trần Phong Lương Nhữ Hốt, tháng 3-1431 Lê Lợi đích thân cầm quân đánh dẹp Bế Khắc Thiệu- Nông Đức Thái ở Cao Bằng Thái Nguyên. Nhà vua viết chiếu thông báo tội làm phản triều đình của họ và đề thơ khắc trên núi đá ở Nà Lự Cao Bằng:

Tháng 1-1432, Lê Lợi sai Tướng Lê Sát và Tư Tề đem quân đánh dẹp chúa động Ma Sa Đèo Cát Hãn. Mặc dù tuổi cao sức yếu, Lê Lợi cưỡi voi dẫn hậu quân lên châu Ninh Viễn tiếp ứng. Ba quân càn quét săn lùng bắt sạch các thủ lĩnh tù trưởng Tây Bắc phản quốc. Khi Lê Lợi tấn công động Ma Sa thì chúa động Đèo Cát Hãn trốn thoát . Lê Lợi đề thơ khắc núi Pú Huổi bản Tràng Xá Lay Tơ Mường Lay tả ngạn sông Đà ở Lai Châu :

Chiến thắng trở về Thăng Long đến Chợ Bờ, Lê Lợi lại khắc thơ trên núi Hào Trảng:

Năm 1435 Lê Lợi sai quân đánh dẹp tan bọn phản loạn Cầm Quí ở miền Tây Nghệ An. Tình hình biên cương Đại Việt được ổn định.

Lại nói chúa động Ma Sa Đèo Cát Hãn chạy trốn sang chúa Ai Lao cầu cứu. Chúa Ai Lao nói :

-Vận hội Đại Việt thắng Đại Hán Đại Minh đấy! Đại Thái không thể phát triển sang hướng Đông được. Trời giành cho Đại Thái ở hướng Tây Nam. Họ Đèo là con cháu Rồng Tiên cớ gì mà làm phản Lê Lợi? Thật đáng thương cho ông già cưỡi voi ngược nậm Ta dạy bảo nhà ngươi! Để chín châu mười mường quê hưong nhà ngươi được yên bình, nên noi theo Sa Khả Tham, Sa Nam, chớ theo vết xe đổ của Ngưu Hống. Nhà ngươi hãy xác định lại ý thức cộng đồng của mình thuộc về đâu? Đại Việt không còn đất cho ý thức Đại Thái nẩy mầm hiểu chứ? Đại Thái ở xứ nhà ngươi chỉ là một trong 100 họ làm nên Đại Việt mà thôi!

Nghe theo chúa Ai Lao, Đèo Cát Hãn trở về nước, đích thân xuống Kẻ Chợ vào chầu Lê Lợi xin tha tội chết. Lê Lợi nói :

-Đánh kẻ chạy đi không ai đánh kẻ chạy lại. Nhà ngươi hãy trở về quê thu hết văn bằng mua chuộc của thằng nhãi con Tuyên Đức nộp lên cho trẫm. Trẫm xóa bỏ quá khứ của nhà ngươi. Từ nay ngẩng cao đầu đi tới tương lai làm bầy tôi trung hiếu với minh quân vì dân vì nước.

Lò Cẩm Tú kể – Ghi ở Mường Lò 1980

Ngày ấy ở Phủ Tây An có cặp vợ chồng người Thái họ Đào sinh được hai người con trai khôi ngô tuấn tú đặt tên là Đào Quốc Kế và Đào Quốc Uy.

Người cha đã dạy hai con học văn võ song toàn. Hai con rất thích môn sử , nhất là sử Thái. Đêm đêm hai con nghe cha kể sử Thái tới canh khuya vẫn thích thú không thấy buồn ngủ.

Lúc bấy giờ phủ Tây An gồm sáu châu: Tùng Lăng , Hoàng Nham, Tuy Phụ, Kiêm, Hợp Phì, Lê Tuyến đã bị nhà Thanh xâm lược đã hai mươi năm. Hai con đề nghị cha kể kỹ về quê hương. Ông già e hèm nói :

Hai anh em đồng thanh nói :

– Nhà Mãn Thanh đã bị Hán hóa thành nòi Đại Hán tiếp tục xâm lược Đại Việt ta. Giá mà chúng con có phép thần thì ngay bây giờ đuổi chúng về bên kia sông Hoàng Hà giành lại quê xưa cho người Nam Man Miêu Dao và Bách Việt. Đại Việt ta thu về Vân Nam , Quí Châu và Lưỡng Quảng nguyên như Văn Lang 15 Bộ xưa. Hận Quang Trung được trả. Với phủ Tây An, cha cậy chúng con, để không phụ lòng cha, nhất định chúng con sẽ giành lại ! Chúng con hứa theo chân Đào Thế Quang vì nước, không bao giờ để tiếng xấu truyền lưu như Đào Quí Khách. Kính mong cha hãy yên tâm !

Từ hôm ấy hai anh em họ Đào nung nấu ý chí đánh đuổi nhà Thanh giải phóng quê hương. Hai chàng luyện tập các đường võ đao kiếm cưỡi ngựa bắn cung và học các mẹo dùng binh của tộc Thái về các cách đánh mai phục, đánh úp, đánh nghi binh, đánh gián điệp… Lớn lên hai anh em tổ chức dân binh Thái ở các mường. Nối tiếp truyền thống đánh quân ngàn xưa, hàng năm các mường đem dân binh đánh nhau vài ngày để luyện võ chờ thời cơ cứu nước cứu mường. Quan quân nhà Thanh kiểm soát ngăn cấm thì tạo các mường tấu :

-Đây là tập tục của Bách Việt tự thời Kinh Dương Vương không bỏ được đâu! Có dân binh có đánh nhau để luyện võ giữ mường đề phòng kẻ khác tìm mường ăn mường. Có đánh nhau thì các mường mới được Thần Linh phù hộ, làm ăn mới được mùa , mường bản mới bình yên.

Quan quân nhà Thanh phải chịu cái lý của người Thái.

Đến ngày trưởng thành, Đào Quốc Kế được dân Thái đen bàu là tạo mường Tum Hoàng, Đào Quốc Uy được dân Thái Trắng bàu là tạo mường Ôm . Thấy hai anh em họ Đào có chí khí, quan phủ nhà Thanh dụ dỗ mua chuộc, cho con trai con gái giao du kết bạn để làm gián điệp dò la. Nhà Thanh tiếp nối nhà Tống nhà Minh dùng thủ đoạn sắc phong chức tước và thưởng vàng bạc cho các tù trưởng biên giới Đại Việt để biến họ làm tay sai dẫn đường xâm lược. Quan phủ Hán trao sắc phong của vua Thanh cho anh em họ Đào chức tạo mường Ôm mường Tum Hoàng và còn đưa cho hai chàng 36 tờ sắc phong của vua Thanh để trống chưa ghi tên nhờ tiến cử các tạo mường để ghi tên vào. Cấp thẻ bài ra vào thành phủ cho hai tạo mường Ôm mường Tum Hoàng. Tương kế tựu kế, hai anh em chấp nhận để nắm bắt tin tức biết mình biết người. Xong bên lý có bên tình. Hai nương tử con quan phủ Hán đem lòng yêu hai anh em họ Đào. Hai anh em họ Đào có trái tim không phải bằng đá đã đáp lại tình yêu của họ. Nhưng quyết không để ái tình lấn át lý tưởng thầm kín. Nhân dịp tết nguyên tiêu năm ấy, quan quân nhà Thanh 6 châu lỵ và phủ Tây An ăn chơi rượu chè trai gái mê tơi, hai anh em đi vận động các tạo mường sáu châu cùng nổi trống đồng khởi nghĩa. Dân binh các mường trở thành nghĩa binh ào ạt tấn công các công sở đồn trại địch. Các tạo mường có sắc phong của vua Thanh có thẻ bài vào phủ châu lỵ, kén nghĩa binh võ giỏi giả vờ mang lễ vật lên mừng tết Nguyên Tiêu quan Hán chi châu vào thành làm nội ứng. Bị đánh úp bất ngờ, trong đánh ra ngoài đánh vào, quân quan nhà Thanh không kịp trở tay chết sạch sành sanh. Do quan hệ với hai con gái quan phủ Hán, và có sắc phong của vua Thanh, hai anh em ra vào phủ Tây An biết đường ngõ thành trì như thuộc lòng bàn tay, đã dẫn nghĩa binh mường Ôm mường Tum Hoàng giả vờ mừng tết rằm tháng giêng đã hạ thành Tây An nhanh gọn. Gia đình quan phủ Hán chống cự đều mất mạng sống. Nể tình xưa, hai anh em cho chôn cất họ tử tế. Chưa đầy một tuần, hai anh em họ Đào đã giải phóng phủ Tây An giành lại sáu châu cho Đại Nam nguyên vẹn như xưa.

Triều đình Huế cả mừng đã phong chức cho hai anh em Đào Quốc Kế và Đào Quốc Uy là trưởng phó tổng quản phủ Tây An tỉnh Hưng Hóa. Khi hai anh em về trời được Triều đình Nguyễn phong là Thần vệ quốc xây miếu thờ ở quê nhà.

Cầm Ngọc Tú kể- Ghi ở Mường Lò 1980.

Tây Sơn đuổi Nguyễn Ánh ra đảo Côn Lôn Phú Quốc. Nguyễn Ánh sang Băng Cốc gặp vua Xiêm xin giúp quân đội đánh Tây Sơn phục quốc.

Vua Xiêm cho họp viện cơ mật nói :

-Hoàng tộc của Trẫm nguồn gốc là Ngưu Hống ở Tây Bắc nước Đại Việt. Ngưu Hống dựng cờ Đại Thái ba lần đánh Đại Việt lập nước Thái ở phía đông không thành. Cụ tổ trẫm đã theo sông Mê Công xuống phía nam lập quốc Đại Thái Xiêm La mới thành công. Mối hận Ngưu Hống đến đời trẫm vẫn chưa nguôi. Nay Nguyễn Ánh vốn là người nhà bên ngoại của trẫm cầu cứu đánh ba anh em Tây Sơn. Trẫm nghĩ cơ hội để trả mối hận Ngưu Hống đã đến. Người Thái ra đi từ mường Then mường Ôm mường Tum Hoàng thành Cổ Loa đến Băng Cốc mới thành người Đại Thái hôm nay. Vương quốc Thái Xiêm La phải trở về giải phóng Đất Tổ của mình. Vương Quốc Đại Thái của trẫm phải đủ chín con sông: Mê Công, sông Mã, sông Đà, sông Hồng, sông Nậm Na, sông Nậm Nua, sông Nậm U, sông Lan Thương, sông Trường Giang. Nghĩa là chín con sông ấy chảy đến đâu thì lãnh thổ của vương quốc Xiêm La đến đấy. Tình hình hiện nay Nhà Thanh quản nước Trung Hoa đầy mầm loạn, đang lấn chiếm Bắc Hà của Đại Việt, tái lập vua Mạc lấy cớ xâm lược. Nhà nước Lê- Trịnh ở Bắc Hà thối nát. Vua Lê là bù nhìn. Chúa Trịnh nắm quyền cai trị, áp bức bóc lột, ăn chơi xa xỉ, trăm họ khổ sở ai oán. Nam Hà đang loạn Tây Sơn, Nhà Nguyễn thất thế, Nguyễn Ánh lưu vong cầu cứu trẫm, còn cầu cứu bọn áo dài đen giáo sỹ Tây Phương kiêm gián điệp và thương đội Pháp hòng cậy nhờ phục quốc. Nhưng nước xa không cứu được lửa gần. Nhân cơ hội nghìn năm có một này, trẫm giả vờ giúp Nguyễn Ánh một mặt đem đại binh thủy bộ chiếm Chân Lạp và Nam Ai Lao làm bàn đạp đánh Tây Sơn Nam Hà, tiến ra Bắc Hà diệt Lê -Trịnh, đuổi Nhà Thanh về bên kia sông Trường Giang giành lại 9 sông của Tổ tiên Đại Thái ta, một mặt trẫm giao nhiệm vụ cho viện cơ mật lập triều đình bù nhìn Đại Việt làm bình phong chính trị giúp quân đội Xiêm La đánh đâu thắng đó ! Trẫm chờ một ngày ngồi ngai vàng ở Đông Kinh và Nam Kinh !

Nói rồi, vua Xiêm cử hai tướng Thái: Lục Côn , Sa Uyển và các đại quan Thái: Thủy Biện nguyên cựu thần Chân Lạp cùng hai cháu là chiêu Tăng và chiêu Sương kéo hai vạn quân thủy và ba vạn quân bộ sang Nam Hà. Viện cơ mật Triều đình Băng Cốc lập Triều đình bù nhìn Đại Việt do Tôn Thất Xuân là vua cùng hai hàng văn võ người Nam Hà và Bắc Hà chạy nạn sang Xiêm La có hận thù với Lê- Trịnh, Nguyễn và Tây Sơn.

Nghe tin liên quân Xiêm La và Nguyễn Ánh đánh vào Gia định, Nguyễn Huệ tức tốc đem đại quân từ Phú Xuân vào Mỹ Tho mưu tính diệt quân Xiêm xâm lược. Nguyễn Huệ kết hợp chiến thuật ngoại giao , tình báo và quân sự để đánh bại quân Xiêm có quân hùng tướng mạnh thuyền chiến pháo, voi pháo hiện đại kiểu phương Tây và quân đông gấp nhiều lần quân Tây Sơn.

Trên mặt trận tình báo, Nguyễn Huệ biết được thông tin vua Xiêm lập Triều đình Đại Việt bù nhìn làm công cụ xâm lược, đã ra lệnh dùng kế mượn địch diệt địch. Cơ quan tình báo của Nguyễn Huệ biết Đỗ Thành Nhân là bạn chí cốt của vua bù nhìn Tôn Thất Xuân đã vận động Đỗ Thành Nhân viết một bức mật thư gửi Tôn Thất Xuân ở Băng Cốc hò hẹn làm nội ứng để đánh úp nước Xiêm La. Người mang mật thư đến Băng Cốc đã bị quân thị vệ của vua Xiêm bắt được. Xem thư, vua Xiêm nổi giận lôi đình đã sai Bộ Hình chém đầu vua Tôn Thất Xuân và Triều đình bù nhìn Đại Việt.

Vừa tắm máu bọn tay sai âm mưu xâm lược xong thì vua Xiêm nhận được tin Thủy Quân Xiêm bị mắc lừa kế “giảng hòa” của Nguyễn Huệ đã sa bẫy ở Giạch Gầm – Soài Mút chết sạch không còn một mống. Thế là vua Xiêm ngất sỉu, hôn mê mấy ngày mới tỉnh. Vua Xiêm mới chợt nhận ra vấn đề thều thào nói:

-Trẫm thật thà quá! Trẫm đã mắc mẹo lừa của Tây Sơn cả về chính trị và quân sự rồi! Ai lại như trẫm tự chặt tay chân của mình bao giờ? Ôi thôi! Chưa biết đến bao giờ mới trả được nỗi hận Ngưu Hống nghìn xưa?

Cầm Ngọc Tú kể- Ghi ở Mường Lò 1980

Cầm Hánh đánh giặc Cờ Vàng

Ngày ấy, ở Mư­ờng Lò châu Qui Hóa nay là thị xã Nghĩa Lộ tỉnh Yên Bái, nhà họ Cầm ngư­ời Thái Đen sinh đư­ợc cậu bé tai to mặt vuông chữ điền mắt sáng vẻ lanh lợi đặt tên là Cầm Hánh.

Ai cũng đòi bế cậu bé thơm cái chim bằng quả ớt và nói nựng. Người thì gọi cậu là là ông Quảng Đức lớn lên là ngư­ời có đạo đức. Người thì gọi là ông Quảng Nghĩa mai sau là ngư­ời sống có tình có nghĩa. Ngư­ời thì gọi là ông Quảng Th­ượng tin rằng cậu bé thành ng­ười cao th­ượng. Ngư­ời thì gọi là ông Quảng Thống sẽ là ngư­ời thông thái hiểu biết rộng. Ng­ười thì gọi là ông Quảng Thạo hy vọng cậu bé thành ng­ười làm tạo mư­ờng biết tổ chức xếp đặt mọi công việc của làng bản. Ng­ười thì gọi là ông Quảng Tâm ( giầu tình cảm tâm huyết biết đoàn kết mọi ngư­ời), Quảng Minh (thông minh sáng suốt tỉ mỉ), Quảng Công (có nhiều công lao với mư­ờng bản)… Năm lên bảy cậu học chữ Thái, thích đọc sử Thái, mê chuyện Lò Lạng Chư­ợng tìm mư­ờng ăn mư­ờng , chơi trò xây thành dựng lũy, bắn cung tên, rủ bạn đánh trận giả. Lớn lên thích tham gia hội Lồng Tồng đua ngựa bắn cung đấu kiếm. Mùa hội nào cũng tranh giải nhất. Và ­ưa giao du bạn bè thư­ợng võ Thái.

Năm 1870 giặc phỉ Tàu Hán Thanh Hoàng Sùng Anh cầm đầu phất cờ vàng làm t­ướng cư­ớp ở Hoa Nam bị Nhà Thanh đánh dẹp đã chạy sang Đại Nam nh­ư kiến cỏ. Lịch sử gọi là giặc Cờ Vàng. Đi đến đâu chúng đốt c­ướp giết hiếp đến đấy. Trung du và th­ượng du Bắc Kỳ chìm ngập khói lửa. Triều đình Huế cử Hoàng Kế Viêm làm Tổng thống quân vụ Bắc Kỳ lo việc dẹp giặc Cờ Vàng. Lúc bấy giờ Quân Cờ Đen Thái Bình Thiên Quốc do Lư­u Vĩnh Phúc cầm đầu bị Nhà Thanh đàn áp cũng di tản sang Đại Nam đ­ược Triều đình Huế cho c­ư trú. Hoàng Kế Viêm đã mư­ợn Quân Cờ Đen Lư­u Vĩnh Phúc cùng đánh quân Cờ Vàng và chuẩn bị đánh Tây ra Bắc Kỳ. Quân Cờ Vàng thua to chạy lên Tây Bắc. Một vạn quân Cờ Vàng từ Âu Lâu Bách Lẫm theo đư­ờng ngòi Lâu qua Ba Khe Đèo Á ch đã tràn vào M­ường Lò c­ướp bóc. Ngư­ời có tiền đư­a ngay chúng tha, ngư­ời không tiền chúng giết tại chỗ, dân sống như­ nai như­ hoẵng, như­ cáo như­ chồn chui rúc rừng sâu…

H­ưởng ứng lời kêu gọi của Tổng thống quân vụ Bắc Kỳ Hoàng Kế Viêm và căm thù giặc Cờ Vàng tàn phá Mư­ờng Lò, Cầm Hánh tập họp anh em gia đình họ Cầm, bạn bè th­ượng võ gần xa và nhân dân Mư­ờng Lò phất cờ Đại Nam đánh giặc Cờ Vàng cứu M­ường cứu n­ước. Chỉ trong một ngày nghĩa quân đã có vạn ngư­ời tham gia. Cầm Hánh cử ra bốn tướng chỉ huy bốn đơn vị chiến đấu đều là ngư­ời anh em một nhà một họ: Cầm Chiêu, Cầm Tú, Cầm Hiệp, Cầm Tám. Cầm Hánh tổ chức nhân dân các tộc ngư­ời Thái Mư­ờng Khơ Mú Kinh Keo Tày Dao Mông trong vùng đào đắp xây dựng thành lũy Viềng Công ở xã Hạnh Sơn ngày nay vẫn còn những cụm tre hóa dào ngoài thành gọi là tre thiêng. Từ thành lũy Chiềng Công, ngày đêm nghĩa quân xuất phát đi đánh tập kích , đánh mai phục tiêu diệt sinh lực quân Cờ Vàng. Lợi dụng trời nắng hanh, đêm khuya khi giặc ngủ nh­ư chết trong lều trại ở đồng Mư­ờng Lò, Nghĩa quân bao vây bắn mũi tên nỏ có bùi nhùi lửa thiêu hủy cháy ra tro. Giặc hoảng loạn , nghĩa quân xung phong kẻ g­ươm chém, ngư­ời giáo đâm, giặc chết nh­ư ngả rạ. Một trận tập kích diệt gọn ba nghìn tên. Giặc vào các bản cướp bóc. Nghĩa quân mai phục đón lõng , hai bên sư­ờn núi bắn tên nỏ xuống như­ mư­a, đứa chết đứa bị th­ương la liệt. T­ướng Cờ Vàng là Hoàng Sùng Inh em trai Hoàng Sùng Anh sai quân báo dò xét căn cứ Chiềng Công. Sùng Inh tập trung quân lực bất ngờ kéo đến hạ thành lũy Chiềng Công. Trên đ­ường vào qua ổ mai phục bị đá lăn xuống và trúng mũi tên độc chết không kể xiết. Nghĩa quân bắn hết tên và đá lăn không còn phải rút lui. Quân chi viện xông vào đến lũy tre thiêng, đứa thì sa hầm chông, đứa thì bị mũi tên và cây lao trong hào lũy phóng ra ngã lăn đùng. Giặc không có vũ khí phá lũy tre thiêng, không hạ đ­ược thành buộc phải rút lui. Hoàng Sùng Inh phải cho ng­ười ra đồn Tuần Quán Bách Lẫm xin viện binh. Hoàng Sùng Anh đích thân chỉ huy ba vạn quân có súng phóng hỏa kéo vào Hạnh Sơn bao vây Chiềng Công. Súng phóng hỏa giặc đốt cháy tre thiêng mở lối vào. Giặc tràn lên như­ lũ quét. Trên thành nghĩa quân bắn mũi tên xuống như­ mư­a, bắn súng hỏa mai đì đùng tóe lửa, giặc chết hết lớp này thì lớp khác lại xông lên. Tiền súng phóng hỏa, hậu xung kích bắc thang leo vào thành. Thế giặc quá mạnh, nghĩa quân hy sinh quá nhiều. Cầm Hiệp Cầm Tú tử trận. Cầm Hánh, Cầm Chiêu , Cầm Tám dẫn số nghĩa quân còn lại theo cửa hậu rút ra khỏi thành vào một cánh rừng thì quân báo cho biết địch đã phong tỏa. Cầm Hánh tập họp Nghĩa quân nói :

-Chiềng Công thất thủ rồi! Chúng ta đang bị bao vây. Cơ trời không thuộc về chúng ta. Như­ng chúng ta không thể cùng nhau chết cả ở đây. Ta có bạn thân là TriệuTuấn thủ lĩnh ng­ười Dao ở Nậm Mư­ời, Đặng Hưng tù trư­ởng ng­ười Dao ở Suối Quyền. Vậy các chiến huynh chiến hữu chia nhỏ từng nhóm ba ng­ười, đóng vai thợ rừng không nói tiếng Thái mà nói tiếng Tày Nùng tiếng Dao Mông ngày nghỉ đêm đi đến Nậm M­ười, Suối Quyền bảo rằng Cầm Hánh gửi làm con nuôi chờ thời cơ diệt giặc Hoàng Sùng Anh báo thù cho đồng đội!

Mọi ng­ười quấn quít nư­ớc mắt như­ m­ưa muốn ở lại cùng chết với Chủ Tư­ớng . Cầm Hánh gạt nư­ớc mắt giục :

-Đó là mệnh lệnh của ta, đi đi thôi!

Họ buộc phải nghe theo. Tản ra bốn phía. Chia tay chiến hữu xong, ba anh em Cầm Hánh tuẫn tiết. Mấy giờ sau giặc càn tới chỉ còn thấy ba đống mối bên gốc cây chò cao vút từng mây.

Để noi gư­ơng ng­ười anh hùng Cầm Hánh đánh giặc giữ m­ường hy sinh vì n­ước vì dân, ngư­ời Thái Đen Mư­ờng Lò tôn vinh là Thành Hoàng lập đền thờ ở thị xã Nghĩa Lộ 95 năm không ngớt khói hư­ơng. 1965 Đền Thờ Cẩm Hánh bị dỡ bỏ chư­a biết trách nhiệm thuộc về ai? Nh­ưng sách Thái cổ : “Cầm Hánh tạp Sấc Khư­ơng” ( Cầm Hánh đánh giặc Cờ Vàng) vẫn còn sao chép truyền lư­u mãi mãi. Ngư­ời Thái M­ường Lò với ngư­ời Dao Nậm M­ười, Suối Quyền đi nư­ớc nghĩa cưu mang nhau từ ấy đến nay.

Ngày ấy ở mường Then có một thầy đồ dạy chữ Thái sinh được hai người con trai. Người vợ mất sớm, thầy đồ gà trống nuôi con. Khi hai con đã mười bảy mười tám tuổi, thầy đồ ra đi gọi hai con đến bên giường dặn dò:

-Trên án thư có quyển sách Thái cổ và nghiên bút cha để lại cho hai con…

Nói chưa hết câu thì thầy đồ tắt thở. Hai anh em khóc chu lên:

-Cha ơi ! Cha vội về Then chưa chờ đặt tên cháu cha ơi!

Hai con chôn cất cha mồ yên mả đẹp rồi mỗi người một phương tìm mường làm ăn sinh sống.

Người anh cầm quyển sách Thái cổ đến mường Tè bán cho một thầy đồ trẻ dạy học lấy vài xu. Người anh phá hoang trồng trọt chăn nuôi, lấy vợ sinh con, gia đình khá giả. Người ta hỏi thăm quê quán cha mẹ gia đình xuất thân thì người anh đáp :

-Quê tôi ở mường Tum Hoàng. Cha làm tạo, mẹ dệt thổ cẩm.

Người anh không muốn lộ tung tích cha làm thầy đồ, mồ côi mẹ, gia cảnh nghèo hèn của mình vì cảm thấy khổ nhục.

Người em đến mường Lò đi ở chăn trâu kiếm miếng ăn. Chàng luôn luôn mang theo trên người cái túi nghiên bút của cha để lại không bao giờ dời xa một li. Người ta tưởng chàng có học, ai cũng nhờ viết thư tỏ tình, làm đơn từ kiện cáo và văn tự cầm đồ bán ruộng. Chàng thật thà nói :

-Cha tôi là thầy đồ dạy chữ Thái, mẹ tôi mất sớm, anh em tôi thất học mù chữ. Khi cha ra đi chỉ để lại cho anh em tôi một quyển sách cổ Thái và nghiên bút. Anh tôi cầm quyển sách cổ Thái đem bán, chê nghiên bút không lấy. Tôi mang theo kỷ vật này của cha như thấy tình cha con chẳng bao giờ phai mờ.

-Mù chữ mang nghiên bút. Đúng là thằng hâm điên rồi!

Một hôm người em đang chăn trâu trong rừng thì một con khỉ mẹ đến gần mếu máo nói tiếng người :

-Con tôi đã chết! Chàng làm phúc hơn làm giầu cho tôi mượn nghiên bút cứu nó sống lại!

Chàng rất ngạc nhiên theo khỉ mẹ vào hang đá. Một chú khỉ con chết cứng đờ, lông dựng cả lên, thân lạnh toát. Chàng lấy nghiên ra mài mực, cầm bút lông chấm vào thì tự nhiên tay chàng chẳng khác tay cha xưa múa bút viết chữ dạy học trò. Một dòng chữ hiện lên trên thân con khỉ đã chết : “Cải tử hoàn sinh”. Vậy là chú khỉ con từ từ cái lông mềm mượt , đôi mắt mở ra, gò má hồng hào. Nó ngồi dậy ôm lấy mẹ khỉ rúc đầu vào hai bầu vú bú tí. Bốn chữ trên thân chú khỉ cũng biến mất.

Một hôm khác, trên đường lùa trâu đi chàng gặp một cụ già còng rạp mặt đất, gùi một lù cở bắp càng thêm còng, chân đi bậm bạch, chậm hơn vịt. Tự nhiên chàng động lòng thương, lại mở túi lấy nghiên bút ra thử. Chàng múa ngọn bút trên lưng cụ già hiện lên bốn chữ : “Cải lão hoàn đồng” Tức thì cụ già từ từ đứng ngay người lên đi nhanh thuăn thoắt dáng vẻ như một chàng trai mới lớn. Cụ về nhà sàn khiến cả nhà há mồm trợn mắt, ai cũng nói :

-Cậu kia nhầm nhà rồi về đi!

-Không! Ông đây mà! Chính ông đấy ! Ông vừa được người chăn trâu cải lão hoàn đồng cho, các con các cháu à !

Cả nhà nhìn kỹ thì nhận ra đôi mắt chính là ông mình, cái lù cở buộc dây của nhà mình. Đàn chó không sủa mà cuốn quýt bên chân người thanh thiếu niên vốn là cụ chủ.

Từ ấy chàng chăn trâu, thôi đi ở làm thuê, mà dùng nghiên bút thần cứu nhân độ thế, giải thoát nhiều người vật khỏi cái lão bệnh tử, được người đời đền ơn trọng vọng, trở thành giầu sang phú quí. Nhưng chàng không muốn hưởng mà đem của cải phân phát cho người nghèo khổ. Chàng sống đạm bạc đủ ăn đủ tiêu.

Mường Lò một độ có giặc cờ vàng tràn đến đốt cướp giết hiếp dã man tàn bạo lửa khói ngút trời, máu chảy đỏ nậm Thia.

Cầm Hánh cùng các chiến hữu Cầm Chiêu, Cầm Hiệp, Cầm Tú, Cầm Tám lãnh đạo quân dân Mường Lò xây dựng chiến lũy Chiềng Công đánh lui nhiều đợt tấn công của quân cờ vàng giết hàng vạn giặc.Thủ lĩnh Quân cờ vàng là Hoàng Sùng Anh điều hành ba vạn quân chi viện vây chặt. Thế giặc mạnh, thành Chiềng Công thất thủ. Cầm Hánh và các chiến hữu người tử trận người tuẫn tiét. Trước lúc Cầm Hánh về Mường Trời đã dặn binh sỹ của ông lên Suối Quyền , Nậm Mười làm con nuôi của người Dao để tránh sự trả thù của giặc. Chiếm được Mường Lò giặc cờ vàng ăn chơi phè phỡn.

Để trả thù cho nghĩa quân Cầm Hánh, từ Mường Than xuống,chàng chăn trâu mài nghiên chấm mực múa bút viết lên trời mường Lò hai chữ : ” Giặc tan!”. Thế là giặc Cờ Vàng sinh chứng đau bụng quằn quại chết một loạt không còn một mống.

Đất nước trở lại thanh bình. Nhân dân mường Lò đi tìm người có nghiên bút thần đánh giặc Cờ Vàng thì không thấy đâu. Người thì bảo người anh hùng ấy không thích công huân, mai danh ẩn tích trên núi Pú Chạng, trên núi Suối Giàng. Kẻ thì bảo là người Then dẹp xong giặc về Then rồi! Những người tin chuyện nghiên bút thần có thật thì lo nghiệp nghiên bút, tầm sư học đạo, trở thành nhân tài phò dân giúp nước.

Lại nói người thầy đồ trẻ ở mường Tè mua được quyển sách Thái cổ giá rẻ ba xu của người anh thì vui như mở cờ trong bụng. Thầy đồ trẻ xem xong cuốn sách reo lên một mình :

-Hạnh phúc của đời ta là đây! Quyển sách giá ngàn vàng cũng không mua được. Trời ơi! Sách là cẩm nang bách khoa toàn thư của người Thái đã mấy nghìn năm lịch sử có giá trị như cơm gạo ăn không bao giờ cũ mà mới mãi tinh khôi. Sao lại có cái thằng ngốc ở trên đời bán cho ta với giá ba xu? Không phải! Đây là của báu Then cho ta! Ha ha ha !…

Thầy đồ trẻ mường Tè dùng sách đó giảng dạy cho học trò biết nền văn minh Thái, biết lập mường đặt tạo, biết làm ăn giầu có, biết sống có văn hóa Thái, trở thành nhân tài phò dân giúp nước, khai sáng các mường. Học trò của thầy đồ mường Tè từ khắp đất nước kéo về trường xưa tôn thầy lên làm vua xứ Thái hưởng vinh hoa phú quí khiến người anh tiếc ngẩn tiếc ngơ.

Lò Cẩm Tú kể- Ghi ở mường Lò 1980.

Ngày ấy ở mường kia có hai anh em mồ côi ở với nhau. Người anh lấy vợ sinh lòng tham chiếm hết gia tài. Không chia cho người em động sản và bất động sản gì. Người em vào rừng lang thang đào củ mài kiếm sống.

Người em nghĩ thầm : “Họ nhà khỉ tốt bụng với nhau quá, biết tìm cây thuốc cải tử hoàn sinh cứu nhau vô tư hơn cả người.” Người em tìm đến cây thuốc nhận mặt rồi vái lạy nín thở khấn thầm : “Tôi là người mồ côi không nơi nương tựa. Tôi xin cây chủ cho một ít lá hoa quả làm thuốc phòng thân . Nếu được thì xin cây chủ nói “ừ”. Nếu nói “không” thì tôi thôi!” Bỗng cây thuốc nói một tiếng : “ừ”. Người em hái vài lá hoa quả mang về hang trú phơi khô gói trong lá chuối cho vào túi đèo bên người.

Một hôm gánh củ mài xuống chợ bán thì gặp một người mắc chứng cảm phong đột tử bên đường. Chàng lấy nắm lá hoa quả thuốc khô ra nhai mớm vào miệng tử thi. Một lúc sau người chết sống lại vái lạy cảm ơn chàng rối rít, rồi mời chàng vào quán ăn đãi một bữa cơm ngon mà chàng chưa bao giờ được ăn. Người được cứu sống nói :

-Từ nay chàng là ân nhân của tôi! Tôi xin làm con cải tử hoàn sinh của chàng! Chàng có thể cho con biết ân nhân của con sống ra sao?

Chàng kể lại hoàn cảnh mồ côi của mình, lấy hang đá làm nhà ở , rừng làm vườn ruộng kiếm ăn. Người được cứu sống rất cảm kích liền vái lạy xin ân nhân về nhà mình ở hành nghề chữa bệnh cứu dân.

Từ ấy chàng trở thành một thầy thuốc nổi tiếng trong vùng. Hễ ai tai nạn , bệnh tật, ốm đau hoặc đã tử vong đều được chàng tận tâm cứu chữa bằng thuốc lá xanh hoa trắng quả bạch phơi khô sắc uống. Mỗi lần cứu được một người, chàng lại vào rừng tìm cây thuốc làm lễ tạ ơn. Chàng tự nhủ : “Nếu ăn cháo đá bát , ngồi mát bóng cây mà bẻ cành, thì cây cho thuốc sẽ không hiệu nghiệm nữa.” Do đó chàng chữa người nào khỏi người ấy kể cả những con vật tai nạn ốm đau, chết cũng vậy.

Một ngày có một ông vua cho quan hoàng môn đón chàng vào cung nói :

-Trẫm nghe tin khanh là một Thần Y. Trẫm mến mộ khanh cho mời vào cung phong chức Thái Y của triều đình. Trẫm có một công chúa hồng nhan bạc mệnh 16 tuổi về âm ti. Trẫm mong quan Thái Y cứu sống lại, trẫm sẽ chia cho nửa nước, nếu thích trẫm gả công chúa cho làm vợ và khi trẫm về Then sẽ truyền ngôi báu cho khanh!

Chàng vái lạy nhà vua nói :

-Bầy tôi xin đa tạ ! Bầy tôi chỉ xin được chữa cho công chúa sống lại trở về với vua cha sống tiếp cho trọn hiếu một trăm năm. Còn chức Thái Y của triều đình bầy tôi không dám nhận, chỉ xin bệ hạ cho phép chữa bệnh cứu người cứu vật. Còn khi bệ hạ và triều đình cần đến thì bầy tôi sẽ có mặt ngay!

-Thôi được! Cứ tạm chấp nhận như thế đã!

Chàng làm lễ cúng thần linh và vong hồn công chúa rồi cho khai quật mộ lấy hài cốt rửa sạch bằng nước rượu phơi khô rồi xếp lại đầu mình tứ chi hình người, lấy lá hoa quả cây thuốc rắc lên, đắp chăn hoa ủ. Sau chín ngày, thì nàng công chúa 16 xuân xanh tung chăn ngồi dậy trước phụ vương và hoàng tộc trong niềm vui tái sinh vô hạn. Nàng đứng dậy vái lạy ôm lấy từng người như vừa đi xa về. Ai nấy ứa nước mắt mừng rơi như mưa. Trong khi ấy chàng rút lui xuống mường cứu bệnh cho dân.

Hôm sau nhà vua mở hội mừng công chúa tái sinh, cho quan hoàng môn đi tìm đón chàng về cung dự tiệc, được công chúa chúc rượu tạ ơn ân nhân và xin được làm vợ giúp chàng hành nghiệp Y cứu người cứu vật. Công chúa quả là một nàng tiên phúc hậu không thể từ chối được, chàng đã đáp tình.

Từ ấy chàng có nửa giang sơn và được công chúa hết lòng chăm sóc đã mở mang sự nghiệp y học phát triển rực rỡ. Trường học đào tạo thầy thuốc mở ra, thành lập các vườn trồng cây dược liệu, các xưởng bào chế thuốc, mở các bệnh viện chăm lo sức khỏe cho con người con vật khắp cả nước.

Chàng trở nên giầu sang phú quí nhưng không xa dân.

Lại nói vợ chồng người anh tham lam chẳng khá lên được. Thấy người em vinh gia hiển quốc tìm đến chơi cầu cạnh. Vợ chồng người em coi là thượng khách mời tiệc yến, biếu nhiều vàng bạc thuốc men quí giá, thừa sống sung sướng hết đời. Nhưng lòng tham vô đáy cứ năn nỉ người em cho biết bí quyết làm giàu. Người em đành kể lại đầu đuôi câu chuyện đời mình. Nghe xong vợ chồng người anh dọn nhà vào hang trong rừng tìm cây thuốc lá xanh hoa trắng quả bạch để hành nghề. Do nóng vội ham của nên quên hết đạo lý giữa người với vật, đè vào chặt cây thuốc cả gốc, nhổ cả rễ, mang về phơi khô chất thành đống, rồi gói đem ra chợ bán. Rừng hết cây thuốc rồi, vợ chồng người anh đêm đêm vào vườn dược liệu của người em nhổ trộm hết sạch cây lá xanh hoa trắng quả bạch để bán tiếp . Người bệnh mua về sắc uống, chẳng ai khỏi, tiền mất tật mamg. Vợ chồng người anh dùng thuốc cứu người mới chết và chết lâu năm cũng không sống lại. Người vật đều nguyền rủa là lang băm lừa đảo. Trong rừng có một con cọp, không còn cây thuốc cứu con của nó khi mắc bệnh, đã rình vồ cắn chết hai vợ chồng người anh, xé xác ra trăm mảnh.

Do vợ chồng người anh đào tận gốc trốc tận rễ nên cây thuốc lá xanh hoa trắng quả bạch hoàn sinh đến nay không còn nữa.

Cầm Vân kể- Ghi ở Trường TNDT Lũng Mu-Mường Lò 1980

Ngày ấy ở mường Ôm mường Ai có một người đàn ông vợ chết thành gà trống nuôi một con trai. Chẳng bao lâu rổ rá cạp lại với một người đàn bà kế có một con riêng. Thế là gia đình ông ta có con anh con tôi chung một nhà.

Thói đời có kẻ ác người thiện. Chẳng may cho ông ta lấy phải bà vợ kế là kẻ ác. Bà vợ kế coi con riêng của chồng là cái gai trong mắt chỉ muốn nhổ đi. Con riêng của bà ta thì được ăn mặc tử tế quần áo mới, con riêng của chồng thì ăn mặc rách rưới. Đến bữa ăn xơi cơm cho con mình một bát đầy thì xơi cơm cho con chồng non nửa bát vơi. Gắp cho con mình miếng nạc gắp cho con chồng miếng xương. Con mình được cắp sách đến trường, con chồng đi chăn trâu.

Ông chồng thường đi buôn muối vắng nhà không biết đấy là đâu, khi về nhà thấy con mình gầy gò xanh xao rách rưới thất học, con riêng của vợ béo tốt, lành lặn, học hành, mới hiểu hết mọi nhẽ, vẻ không bằng lòng, thì bà vợ kế nói :

-Con anh khó dạy lắm, cho học không học, cho mặc lành được hai ngày thì đùa nghịch rách bươm, biếng ăn ham chơi người gầy đen như quỉ đói. Anh ở nhà mà nuôi dạy lấy cho nó tốt đẹp !

Ông chồng đau buồn rồi giải sầu bằng rượu đột quị chết. Đứa con riêng hoàn toàn phụ thuộc người dì ghẻ bất lương.

Hồi ấy, con rể Then là Tum Hoàng làm tạo mường Ôm mường Ai không biết nói gì để Then giận cấm mưa, đồng ruộng hạn hán mấy năm liền, người ta ăn hết sạch 330 loại lúa giống, chỉ còn ăn hương ăn hoa ngửi mùi cơm ảo giác mà thôi. Tum Hoàng và Tạo Ngần Tạo Xuông phải bỏ đi mường Bo Té mường Lò.

Người dì ghẻ dẫn con chồng đến cửa hang núi đá bảo :

-Con nhỏ người chui vào trong tận cùng hang mở hũ vàng lấy về để mẹ mua gạo ăn và áo đẹp cho.

Người con chồng vừa chui vào thì dì ghẻ vần đá to lấp cửa hang, rồi phóng một mạch về nhà. Dì ghẻ cười thầm nói một mình : ” Từ nay ta hết tức mắt, cái gai nhổ vứt đi rồi!”.

Cậu bé chui vào hang càng vào sâu càng to rộng dần. Cậu đứng dậy đi thoải mái, chẳng thấy hũ vàng nào cả, cậu quay về để bảo mẹ kế là không có thì cửa hang đá chèn không đẩy ra được, mới chợt hiểu ra mẹ ghẻ hại mình. Cậu hận khóc gọi “Mẹ ơi có linh thiêng cứu con với!” Một hồi lâu chẳng thấy mẹ chỉ thấy một con thằn lằn quấn quít bên chân rồi bò vào hang sâu vẻ như người dẫn đường Cậu cho rằng linh hồn mẹ nhập vào con thằn lằn này chăng? Cậu liền theo nó quay lại hang đi tiếp. Đi mãi đi mãi, mỏi nhừ chân, đói mệt, ngồi nghỉ, ngủ một giấc, tỉnh dậy lại thấy thằn lằn dẫn đi. Cậu đi qua quãng tối lại đến quãng lờ mờ sáng, rồi lại tối rồi lại sáng. Sau này cậu mới biết mình đã đi qua nhiều ngày đêm. Cuối cùng đến quãng sáng hơn dần và ra cửa hang chẳng thấy thằn lằn đâu, chỉ thấy một vùng trời xanh bao la, đồng trắng, đồng xanh, đồng vàng như thảm lụa mênh mông. Nơi đồng trắng chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa. Nơi đồng xanh người ta đang làm cỏ bón phân. Nơi đồng vàng người ta đang gặt hái. Họ vừa làm vừa ca hát véo von như chim đua hót. Cậu đói xin vài hạt lúa bóc lấy gạo ăn sống thấy vị bùi ngọt thơm lạ thường. Cậu thấy khỏe hẳn ra và người lớn lên, bắp chân bắp tay như chàng thanh niên. Cậu soi người qua vũng nước như gương thấy mình là một trang nam nhi khôi ngô tuấn tú.

Đi hết cánh đồng thì đến làng cửa nhà to rộng giữa vườn xanh đầy hoa trái chĩu cành. Sân rộng mênh mông phơi thóc vàng. Chàng được mời vào nhà và đãi một bữa cơm có xôi gạo nếp thơm ngào ngạt, ăn vào ngon ơi là ngon. Chủ nhà hỏi:

-Cậu từ đâu đến không phải người Then?

-Tôi từ trần gian tới. Đây là mường Trời ư ?

-Phải! Trời đất đã xa nhau từ lâu. Cầu thang đã chặt bỏ. Cậu lên bằng đường nào ?

Chàng kể lại trần gian hạn hán đói khổ, cơm gạo không có ăn, mẹ ghẻ bỏ chàng vào hang đá cho chết mà ngờ chuột sa chĩnh gạo. Người Then cười :

-Gặp rủi hóa may là thế! Nhưng Then cấm người trần lên trời, cậu phải về thôi, không thì bị Thiên Lôi cho một nhát búa sét.

-Tôi là con cháu Tum Hoàng con rể Then cũng bị giết ư ?

-Giết chứ! Then đã giết đi giết lại mấy kiếp người vật trần gian bằng cách mở bảy đường nắng, đóng chín đường mưa còn gì. Giờ đây Then bắt hạ giới chết đói vì hạn hán mà cậu vừa kể đấy!

-Đường hang bị bịt cửa, tôi không về được!

– Yên tâm người Then sẽ giúp.

-Trần gian đói ăn hết 330 giống lúa Then cho rồi. Vậy xin ông chủ Trời cho tôi tham quan cách làm ăn của mường Trời và cho một ít hạt lúa nếp lúa tẻ về hạ giới làm giống !

– Tham quan thì được! Lúa giống thì không cho được đâu! Then bắt được giết cả nhà đấy.

Nói rồi chủ nhà dẫn chàng đi xem tam đồng trắng xanh vàng, các hệ thống mương phai cọn nước dẫn thủy nhập điền, các xưởng nông cụ, các nhà kho, nhà chế biến lương thực, cối chày giã gạo bằng sức nước, nhà bếp, rồi tiễn chàng đi qua sân lúa vàng đang phơi ra cổng bản, gọi chim phượng hoàng cõng chàng xuống trần gian.

Trên đường bay chàng kể đời mình cho chim phượng hoàng nghe. Phượng hoàng thương chàng không đưa xuống mường Ôm mường Ai tránh dì ghẻ ác mà xuống mường Thanh. Chim phượng hoàng nhổ một cái lông sắc như dao tặng chàng làm vật lưu niệm, rồi chia tay chàng trên cánh đồng hoang.

Chàng dùng lông chim phát cỏ chặt cây dựng lều ở tạm. Chàng cởi quần áo để giặt thì thấy gấu quần rách vương theo ba hạt lúa nương lúa nước tẻ và nếp từ sân mường Trời. Chàng mừng quá reo lên :

-Người có phúc trời nắm phần đây rồi!

Chàng liền phát cây đốt ra tro rồi gieo hạt lúa nương. Làm cỏ sục bùn gieo hạt lúa ruộng. Ngày nào chàng cũng chăm sóc đủ nước , bón phân tro, làm cỏ, bắt sâu.

Ba tháng qua. Ba cây mạ sinh trưởng thành ba bụi lúa bông vàng chĩu hạt nức hương thơm không kém gì lúa trên mường Trời. Lúa chín chàng vò ra được ba bát lúa giống tẻ nương tẻ ruộng và nếp ruộng hạt mẩy căng tròn.

Từ đó chàng cấy trồng khắp cánh đồng mường Thanh, mùa gặt thu về cơ man nào là lúa gạo. Có lúa gạo chàng đổi được trâu bò dê ngựa, nhà cao cửa rộng, nhà kho, chuồng trại, lấy được vợ và thuê được người làm, lập được bản, tổ chức được quân đội giữ mường. Then cấm mưa, học theo mường Trời, chàng cho đào mương phai và làm cọn nước dẫn nước suối vào ruộng lên nương.

Ruộng nương của chàng năm nào cũng được mùa to. Nhà kho cứ xây thêm mãi. Nhớ lại những ngày ở mường Trời chàng học được cách làm cối xay cối giã bằng sức nước chảy máng ồ rơi chày thịch gạo trắng như ngọc thơm lừng. Bữa được ăn xôi nếp ở nhà chủ mường Trời chàng học được cách làm chõ gỗ xôi gạo nếp chín bằng hơi, còn lưu trong các bếp người Thái đến ngày nay.

Khắp nơi khắp vùng chín con sông cho ngựa về mường Thanh mua lúa giống của chàng khôi phục nghề trồng lúa. Mẹ con người dì ghẻ ác cũng về mua lúa giống không nhận ra được chàng, nhưng chàng không muốn lấy oán trả oán mà bán cho họ một biếu họ mười. Mẹ con mụ dì ghẻ cảm ơn chàng rối rít. Nhờ có lúa giống của chàng nên mường Ôm mường Ai được mùa liên tiếp, không còn phải ngửi mùi cơm nữa, mà cơm ăn ba bốn năm bát xơi đầy thơm phức nếp hương. Tạo Tum Hoàng tạo Xuông đang ở mường Lò vội vàng quay về mường Ôm mường Ai.

Đồng bào cả nước phong chàng là vua lúa của thời đại Tum Hoàng. Do mường Thanh cấy giống lúa mang từ mường Trời về nên đổi là mường Then.

Lại nói mẹ con dì ghẻ mang lúa giống về mường Ôm trồng cấy trên nương dưới ruộng tươi tốt. Đàn trâu rừng đi qua hỏi nhau:

-Giống lúa ở đâu mà tốt thế?

-Giống lúa của người con chồng ở mường Thanh mang từ mường Trời về đấy!

– Ruộng nương này của ai ?

-Của mụ dì ghẻ lừa con chồng chui vào hang vần đá lấp cửa cho chết ấy mà !

Con trâu đầu đàn hô lớn :

-Hãy vào ăn hết lúa của con mụ dì ghẻ độc ác đi!

Mụ dì ghẻ trông ruộng nương nghe đàn trâu rừng nói thế sợ mất lúa chạy ra đuổi thì bị một con trâu múa sừng cong nhọn húc bắn lên trời rơi xuống đất thủng bụng tan xác. Đàn trâu vơ hết lúa vào bụng rồi về rừng.

Cầm Vân kể – Ghi ở Trường TNDT Lũng Mu Mường Lò 1980.

Nguồn gốc cây lúa nếp hương Tú Lệ

Ngày ấy trời làm hết đại hạn đến đại lụt, mùa màng thất bát, mấy trăm giống lúa không còn, con người con vật lâm nạn đói, củ mài không có mà ăn.

Người con thứ của Tạo Xuông Tạo Ngần là Tạo Đẩu cai quản bản Phạ núi Khau Phạ thấy dân đói khổ đã ngày đêm lo lắng suy nghĩ cách tìm ra nguồn sống cứu trăm họ. Chỉ sau một đêm thao thức đầu tóc Tạo Đẩu bạc phơ.

Sáng ra Tạo Đẩu lập đàn cúng Then giữa cánh đồng cỏ hoang không còn một cây lúa cây bắp mọc. Tạo Đẩu quì trước đàn cầu khấn bảy ngày bảy đêm liền xin được ban hạt giống để trồng cấy lấy ngọc thực nuôi người nuôi vật sung túc như thời ông cha. Đêm cuối cùng Tạo Đẩu mệt quá thiếp đi thì mơ thấy một cụ già đầu tóc bạc trắng như mây hiện lên bảo :

-Ta là Then giáng trần cho nhà ngươi mấy hạt lúa này làm giống mà khôi phục nghề trồng lúa cứu đói cho dân.

Nói rồi Then đặt vào lòng bàn tay Tạo Đẩu ba hạt lúa nếp thơm lừng. Tạo Đẩu bừng tỉnh định nói lời cảm ơn thì không thấy cụ già và hạt lúa nào cả. Trên trời Khau Phạ chỉ có một vệt sao băng bừng sáng và tắt vụt.

Hôm sau Tạo Đẩu ngược suối Nậm Lung lên đèo Khau Phạ. Tạo Đẩu đi mãi đi mãi bảy ngày trời dòng dã thì thấy mấy khóm lúa mọc ở ven suối bông vàng chĩu hạt uốn cong cầu vồng tỏa hương thơm ngan ngát giống như ba hạt lúa trong mơ. Tạo Đẩu cho rằng đây chính là lúa của Then cho, liền ngắt về làm giống.

Ông gieo hạt thành mạ rồi đem cấy ruộng, không phải chăm sóc mà xanh tốt kỳ lạ. Đòng đòng như cái đũa cái. Bông lúa hạt vàng to như đuôi trâu. Lúa chín thơm lừng, ông gặt về phơi khô quạt sạch, chia cho trăm họ các bản mường hạt giống trồng cấy được một thứ gạo trắng dẻo thơm xôi lên ngào ngạt cả làng muốn ăn . Nhưng gạo ngon thơm dẻo và ăn không thấy ngán hơn cả là giống lúa nếp cấy ở cánh đồng màu mỡ Tú Lệ.

Từ ấy người Thái người Xá chín châu mười mường thoát khỏi nạn đói và nếp hương Tú Lệ nổi tiếng còn truyền đến ngày nay.

Cầm Vân kể – Ghi ở Trường TNDT Lũng Mu 1980

Dòng Nậm Đung chảy từ Thác Mây lượn qua ba núi cao Khau Phạ, Khau Soóng, Khau Som xuống các bản người Thái : Nà Hẩu, Búng Sủm, Pom Van, Cò Noòng trù phú êm đềm.

Người dân nơi đây uống nước suối Nậm Đung trong xanh mát lành, tắm nước khoáng Huổi Tum trừ bệnh, ăn cá Sỉnh thơm nức với xôi gạo nếp tan dẻo ngon ngọt ngào, ăn rau dớn ven suối nấu với ốc đá xanh mềm dòn. Do đó sinh ra những nam thanh nữ tú nổi tiếng bao đời. Bản nào cũng nhiều con gái xinh đẹp tài hoa đáng chọn làm Sao Tổn Khuống Lắc Xáy Cốc và bốn Sao Lắc Xáy ngồi trên Sân Hoa Hạn Khuống trong lễ hội Lồng Tồng mỗi xuân về.

Do con người săn bắn đã từ lâu nơi đây thú rừng không còn. Vậy mà trong rừng Khau Phạ vẫn còn vang tiếng con hươu đực gọi con hươu cái kéc kéc kéc. Thợ săn các bản đặt bẫy, dẫn chó đi săn, bủa lưới, bắn súng kíp đì đùng mà nó vẫn còn. Người ta vẫn nhìn thấy con hươu vàng rất đẹp như con bê đầu đội bộ sừng chạc ngoắc một chùm phong lan hoàng thảo hoa vàng trông càng đẹp hơn, lững thững từ rừng Khau Phạ ra bờ Nậm Đung đi dạo qua các bản người Thái bất chấp sự đe dọa của những tay súng săn. Người ta bảo con hươu vàng có phép màu Then cho nên vẫn sống đàng hoàng như vậy. Nhưng nó sống độc thân, chưa ai nhìn thấy nó có đôi. Có điều rất lạ con hươu vàng chỉ hiện ra và làm thân với những cô gái đẹp nết na nhất các bản. Rồi những cô gái ấy như bị bỏ bùa mê không lấy chồng và chỉ tơ tưởng đến con hươu vàng bên bờ Nậm Đung…

Một hôm cô Cầm Nhinh ở bản Búng Sủm đi làm nương về ngồi nghỉ ở bờ Nậm Đung thì con hươu vàng từ rừng Khau Phạ thong thả đi ra. Trên gạc sừng nó ngoắc một chùm phong lan hoàng thảo hoa vàng rất đẹp. Nó tiến đến gần Cầm Nhinh quì xuống, nghiêng chùm hoa về phía cô như có ý dâng tặng. Cô ngạc nhiên và sợ nhưng thích hoa lan vàng đã gỡ lấy. Con hươu vàng nhìn cô đăm đắm một lúc rồi bỏ về rừng. Cô mang chùm hoa về gắn lên cây cổ thụ trước nhà. Chùm hoa thật đẹp tươi như cô Cầm Nhinh vậy. Từ ấy cô để ngoài tai những lời hát khắp báo sao (nam nữ) và tiếng sáo pí pặp tỏ tình của những chàng trai bản. Cô chỉ mơ màng thương nhớ con hươu vàng. Mùa nào thức ấy cô mang mía, trái mắc cọp, măng rừng, cum lúa nếp tan đem đến chỗ gặp con hươu, chờ đến tối nó ra ăn xong mới trở về. Mấy chàng trai nhờ bà mối mang lễ vật đến nhà hỏi cô làm vợ , cô đều từ chối. Cầm Nhinh bỗng nhiên ít nói cười, lúc nào cũng buồn rười rượi như người mất hồn. Mỗi lần ngắm chùm phong lan vàng trên cây cô lại nao lòng nhớ hươu vàng và mang thức ăn đến cho nó. Ăn xong nó liếm tay cô ngửi mái tóc thơm và cô vuốt ve nó vẻ âu yếm. Những ngày xa hươu vàng, chiều chiều Cầm Nhinh đau đáu nhìn xa hút ngọn núi Khau Phạ như đợi như chờ ai đó cho đến ngày tóc bạc lưng còng…

Sau đó vài ngày cô Lò Miên ở bản Cò Noòng cũng gặp con hươu vàng bên bờ Nậm Đung dâng chùm phong lan vàng. Biết chuyện cô Nhinh cô Ban, Lò Miên không thèm lấy chùm phong lan hoàng thảo trên sừng hươu. Cô lượm hòn đá sắc cạnh giáng mạnh xuống đầu hươu rách da dạn sọ chảy máu ròng ròng. Con hươu vàng bỏ chạy một mạch vào rừng, vừa chạy vừa kêu kéc kéc kéc… Chuyện tưởng có thế nào ngờ cô Lò Miên bị ốm liệt giường liệt chiếu, miệng lảm nhảm và kêu kéc kéc kéc suốt đêm. Gia đình phải nhờ thầy cúng mới khỏi. Nhưng Lò Miên thành người ngơ ngẩn vào rừng Khau Soóng đi đi lại lại vạch cây vạch cỏ như tìm vàng đánh rơi. Rồi một hôm không trở về. Ba ngày sau người đi rừng thấy xác cô dưới dòng suối cạn mang về bản cho gia đình làm tang ma.

Tiếp theo ở bản Nà Hẩu có cô gái hai lần được chọn là Sao Tổn Khuống chúa Lắc Xáy Cốc ngồi ở trung tâm Sân Hoa Hạn Khuống trong lễ hội Lồng Tồng của mường bản. Cô tên là Quảng Sa Nhất đẹp người đẹp nết, làm nương giỏi, dệt thổ cẩm tài, hát khắp sao báo và đàn tính tẩu khiến người nghe mê ly ngây ngất. Hơn các cô gái khác cô là người đầu tiên của xứ mường học chữ Thái đậu tú tài, có người yêu sắp cưới là quan Tổng trấn Qui Hóa. Trong hội Lồng Tồng nhìn Lắc Xáy Cốc đẹp như tiên , quan Tổng trấn cất tiếng hát : ” Tôi từ bản xa nhìn thấy lửa. Nhìn thấy bóng áo cỏm của em. Nhìn thấy má hồng muốn hỏi thăm. Nhìn thấy sân hoa muốn đến chơi. Sân hoa của người yêu đấy...” Lập tức Sao Tổn Khuống Lắc Xáy Cốc Sa Nhất cất lời du dương ấm áp đáp : ” Anh từ phương trời nào tới đây? Chim khôn sao lạc trong rừng xanh tươi này? Muốn đón anh lên sân hoa nhưng nấc thang còn ở mãi trong rừng xa. Một mình em không lấy được. Phải nhờ bạn mới có thang về…”

Nghe câu chuyện hư thực của bốn cô gái, người thì bảo con hươu vàng là con hươu quỉ, nó là cái vỏ của linh hồn chàng trai chết yểu chưa vợ nhập vào. Người thì bảo không phải thế mà là con quỉ dâm ô khoác lốt hươu. Nó bắt vía các cô gái làm vợ, nếu không ưng thì nó giết. Duy chỉ có Quảng Thống Cầm Ngọc Lương ở bản Nà Hẩu nói : “Nó không phải là con hươu ma nhập quỉ ám mà là một con hươu đực đích thực có linh hồn động vật mà Then cho quyền đòi loài người phải trả giá vì các chàng trai các bản Nậm Đung đã săn bắn tận diệt hươu cái, nên con hươu đực sống sót không có vợ, buộc linh hồn giới tính hươu đực phải bắt vía các Sao Tổn Khuống của người Thái làm vợ của nó để trả nợ đời mà thôi!”

(Xuất xứ Truyện Sao Tổn Khuống của Thế Sinh)

Ngày ấy ở mường Lay có đôi trai gái phải lòng nhau. Chàng tên là Lường Xuân ở bản dưới. Nàng tên là Cầm Va ở bản trên.

Hàng ngày hai người lấy cớ đi rừng hái củi, xuống chợ bán nấm hương để được gặp nhau tâm tình dưới bóng cây si bên bờ sông Đà trong xanh êm đềm. Họ say sưa chuyện trò nguyền non thề núi, thổi pí pặp , hát khắp sao báo và đan tay nhau âu yếm từ lúc giọt sương mai còn óng ánh trên lá cành đến lúc mặt trời lặn núi khói lam mới trở về.

Nhưng rồi một hôm nhà vua bắt Lường Xuân đi lính về tận Kẻ Chợ luyện binh. Họ gặp nhau chia tay dưới gốc cây Si in bóng sông Đà. Chàng tặng nàng tấm khăn Piêu thêu chỉ hồng, chiếc áo cỏm có hàng khuy bướm trắng và cái thắt lưng hồng. Nàng tặng chàng cái túi thổ cẩm chính tay nàng dệt và thêu đôi chim cu gáy đậu bên nhau trên cành. Chàng nói :

-Từng ngày tới trong quân ngũ lúc nào anh cũng nhớ đôi mắt bồ câu của em, đôi vai ngần trắng của em khi tắm suối, nếu có thấy một cô gái Kinh Keo nào khác thì anh không thấy họ mà chỉ thấy em đội khăn piêu mặc áo cỏm thắt lưng hồng. Cái túi thổ cẩm em thêu đôi chim gáy, ngày nào anh cũng sẽ mở ra xem và ngửi mùi hương tay em . Anh đợi em cho đến ngày mãn lính trở về cưới em làm vợ. Sông Đà còn đây. Cây Si già còn đây. Tình anh yêu em không bao giờ phai. Em ơi!

Nàng để cằm trên vai chàng thỏ thẻ nói :

Rồi chàng đi biền biệt không tin tức gì. Cầm Va chờ đợi Lường Xuân năm năm , chín năm. Ai cũng bảo Lường Xuân chết trận rồi. Những năm đầu nhiều chàng trai cầu hôn, Cầm Va đều từ chối. Có kẻ hăm dọa cho nàng suy nghĩ không lấy sẽ giết. Nàng phải chạy trốn đi ở nhờ bản khác mai danh ẩn tích. Như lời đã thề, ngày nào nàng cũng tìm đến gốc cây si già bên bờ sông Đà thầm hát những lời khắp nhớ nhung Lường Xuân và hái lá si thả xuống dòng sông trôi về xuôi gửi chàng. Đã mười lần cây si thay lá và thay màu rễ chùm trắng râu. Cầm Va vẫn hy vọng gặp lại chàng Lường Xuân. Nhưng rồi sau một đêm dông bão to, chủ nhà nàng tá túc không thấy Cầm Va trở về.

Mười năm sau. Lường Xuân xuất ngũ trở về mường Lay tìm đến nhà Cầm Va thì chỉ còn một bãi lau hoang những bông trắng xóa gió đìu hiu. Chàng kêu than thảm thiết : ” Cầm Va em ơi! Biết tìm em ở đâu bây giờ?” Thấy chàng thơ thẩn như người mất của, già bản cho chàng biết tin Cầm Va bị ép duyên đã trốn khỏi quê hương lâu rồi không biết đi đâu ở đâu? Chàng lại tìm đến cây si già bên bờ sông Đà. Cây Si còn đây mà nàng ở đâu ? Một mình một bóng nhớ nàng quá , chàng rút cây pí pặp đưa lên môi thổi. Tiếng sáo gọi bạn tình u buồn vang vọng dòng sông. Bỗng đâu làn gió hiu hiu thổi bên mình, chàng ngừng môi, quay lại thấy Cầm Va ngồi bên tự lúc nào? Chàng nhìn đăm đắm nàng vẫn đẹp như ngày xưa. Vẫn giọng nói thỏ thẻ oanh vàng. Hai người hàn huyên kể cho nhau nghe không biết bao nhiêu chuyện đời chuyện mình chông gai chắc trở trong mười năm xa nhau. Càng kể lòng càng bốc cao ngọn lửa tình sắt son chung thủy. Cho đến khi chàng ôm lấy nàng thì nàng lùi lại và mất biến. Trước mắt chàng chỉ thấy cái đầu lâu với hai hốc mắt sâu hoắm tối om. Lường Xuân bao phen trận mạc kiên cường mà giờ hoảng sợ bỏ chạy. Cái hình hài đầu lâu và bộ xương rượt theo chàng. Chàng chạy đúng như bị ma đuổi thở không ra hơi, suýt bị túm thắt dây lưng. Chân chàng cùng đường nhảy bừa vào bụi cây đao dại. Lúc ấy trời vừa sáng, tiếng gà rừng gáy vang. Dưới chân bụi đao dại, chàng thấy hình hài người con gái đầu khăn piêu mặc áo cỏm thắt lưng hồng nằm sóng soài. Đúng là khăn áo mà chàng tặng nàng ngày lên đường nhập ngũ. Đúng là Cầm Va của Lường Xuân rồi nhưng chỉ còn là nắm xương khô trong bộ trang phục con gái Thái đụng vào mủn thành tro.

Từ ấy người Tày Thái có tục lấy cành lá đao dại làm vật linh trừ ma tà. Cứ đến ngày 30 tết nguyên đán người ta lấy cành lá đao dại mang về cắm trước cửa cho ma tà sợ không dám vào nhà.

Cầm Vân kể Ghi ở Trường TNDT Lũng Mu năm 1980 .

Ở bản nọ có người ở rể là Sa Khả Lân, bố vợ là Đèo Lầm Khẳng. Bố vợ luôn luôn giao việc cho người ở rể.

Một ngày cuối năm, rét buốt chết cóng cá rô. Đèo Lầm Khẳng khoác áo chùm len dạ kín từ đầu đến chân, sai con rể lặn xuống ao tháo nút đõ cống để bắt cá chuẩn bị ăn tết nguyên đán. Sa Khả Lân vâng vâng dạ dạ rồi đi ngay.

Tới bờ ao thấy mặt nước bốc sương khói mù mịt, hơi lạnh tím bầm da, chân tay tê cóng cứng đờ, Sa Khả Lân bèn vơ nắm cành củi khô nhóm lửa sưởi và hút thuốc lào sòng sọc cho ấm người.

Đèo Lầm Khẳng đủng đỉnh xuống bờ ao xem thằng ở rể đã thực hiện lệnh của bố vợ chưa? Xem rồi, Đèo Lầm Khẳng cứ đứng lì để ốp, lưng quay vào đống lửa, mắt nhìn xuống cửa đõ cống . Sa Khả Lân rít một hơi thuốc lào phả khói trắng, tiện tay cầm đóm lửa châm vào tà áo chùm phía sau của bố vợ. Tức thì áo choàng của Đèo Lầm Khẳng bốc cháy ngùn ngụt. Người ở rể kêu toáng lên :

-Kìa! Kìa bố! Cháy áo ! Nhảy xuống ao mau lên !

Bố vợ hoảng hốt nhảy ùm xuống ao. Áo lửa tắt ngấm. Đèo Lầm Khẳng rét run lập cập lóp ngóp tìm đường lên bờ. Sa Khả Lân nói :

-Bố ơi! May quá! Bố đang dưới ao đã ướt áo rồi. Tiện thể bố giúp con tháo luôn cái nút đõ cống với!

Vậy là Đèo Lầm Khẳng bố vợ buộc phải thực hiện công việc của thằng ở rể.

Một hôm bố vợ bảo Sa Khả Lân:

-Sáng nay hai bố con ta lên đồi cắt cỏ cho ngựa.

-Dạ dạ! Bố cầm dây thừng đi trước! Con cầm liềm theo sau!

-Có hai việc cắt cỏ và vác cỏ về nhà. Cho con chọn một, còn một ta làm.

Sa Khả Lân nhanh nhẩu đáp :

-Bố vác, con xin cắt!

Thế là Sa Khả Lân cầm liềm cắt sồn sột. Đèo Lầm Khẳng ung dung ngồi đợi vác cỏ về nhà. Sa Khả Lân cắt xong bó thành một vác cỏ để đó… Bố vợ nhìn ra thấy vác cỏ mà chẳng thấy thằng ở rể đâu, gọi ầm ĩ, không thấy thưa, sợ trời nắng to, vội vàng vác bó cỏ về trước. Bó cỏ nặng quá, Đèo Lầm Khẳng mồ hôi nhễ nhại, ì ạch cố hết sức vác về đến nhà, ông định vứt nhanh xuống chuồng ngựa, thì từ trong bó cỏ Sa Khả Lân kêu lên :

-Từ từ bố ơi! Bố vứt mạnh con vỡ đầu gẫy chân bố ạ!

Vậy là lần thứ hai Đèo Lầm Khẳng phải làm theo ý của thằng ở rể.

Sáng hôm sau Đèo Lầm Khẳng và thẳng ở rể lại lên đồi cắt cỏ ngựa. Để trả đũa hôm qua, Đèo Lầm Khẳng cắt cỏ. Sa Khả Lân chờ vác cỏ. Trong thời gian đợi, Sa Khả Lân leo lên đỉnh đồi vần những tảng đá thành một đống. Thấy bố vợ đang thu cỏ buộc thành hai bó. Tức thì Sa Khả Lân vừa lăn đá xuống vừa thét to:

-Bố ơi chạy đi ! Đá lăn xuống đấy!

Đèo Lầm Khẳng chạy phía nào cũng có đá lăn phía ấy. Ông chạy đi chạy lại lung tung. Nhảy vào chỗ có tổ ong vò vẽ, Đèo Lầm Khẳng bị ong đốt sưng đầu từng nốt như quả táo ngồi rên hừ hừ. Thế là Sa Khả Lân đẵn cái cây làm đòn xóc gánh hai bó cỏ nhẹ nhàng đi về nhà. Bố vợ cầm liềm đi theo sau chốc chốc lại rên :

– Ô là là!… Trời ơi là trời ! Buốt đến tận óc…

Lần thứ ba thua mẹo lừa của thằng ở rể, Đèo Lầm Khẳng tức lắm. Nhưng ông cố nén giận. Vụ cấy đã đến. Đèo Lầm Khẳng định thuê người nhổ mạ, liền bắt con gà sống thiến nhốt vào lồng để làm thịt thiết đãi thợ, trông thấy thằng ở rể, ông lại thả con gà ra. Sa Khả Lân nói :

-Bố không phải thuê ai cả. Việc nhổ mạ để con lo cho. Sáng mai bố gọi thợ cấy đến ruộng sẽ có đủ mạ cho họ gánh đi cấy.

Đèo Lầm Khẳng mừng thầm có thằng ở rể nhổ mạ đỡ tiền công thuê và đỡ tốn cơm nuôi, liền gật đầu :

Vào lúc nửa đêm Sa Khả Lân ra ruộng túm những ngọn mạ buộc lại như những bó mạ đã nhổ, rồi về nhà. Sáng ra những thợ cấy tới gánh mạ thì gốc bó mạ vẫn dính liền đất không cầm lên được. Thế là họ phải nhổ mạ hôm sau mới gánh đi cấy. Đèo Lầm Khẳng cho gọi thằng ở rể đến trước mặt mắng :

-Hôm qua mày lại lừa ta không nhổ mạ mà chỉ buộc ngọn mạ thôi!

-Có gì đâu bố ạ ! Con gà sống thiến đã nhốt vào lồng định làm thịt cho thợ nhổ mạ ăn bố còn thả nó ra nên việc nhổ mạ còn dính mặt đất là lẽ tất nhiên mà thôi!

Nghe xong Đèo Lầm Khẳng giận tím mặt tím môi không nói bỏ đi. Lần thứ tư thua thằng ở rể, nhục lắm, ông không gả con gái cho Sa Khả Lân bèn phá đám. Đêm đêm ông xích con chó dữ ở chân cầu thang con gái. Cửa buồng con gái ra sàn ngoài ông khóa lại. Ông làm thế để cấm thằng ở rể không được bén mảng đến buồng con gái của ông. Sau thời gian ở lạnh, ông không cho cưới mà chỉ trả công đứa ở cho Sa Khả Lân là xong. Biết âm mưu của bố vợ chia uyên rẽ thúy, Sa Khả Lân chờ cho bố vợ đi ngủ, đêm thì vứt cho con chó dữ khúc xương, đêm thì ném cho miếng thịt. Con chó trước lạ sau quen, vừa ăn vừa múa đuôi, Sa Khả Lân chọc que vào gầm sàn chỗ người yêu nằm. Nàng dậy mở cửa hậu cho chàng đường hoàng đi qua con chó dữ leo thang lên buồng ân ái với người yêu. Đến ngày cuối cùng ở rể thì con gái của Đèo Lầm Khẳng đã có bầu sáu tháng. Đèo Lầm Khẳng gọi Sa Khả Lân đến bảo:

-Tao chịu thua mày ! Tao thừa nhận mày là con rể phản bố vợ nhưng phản một cách thông minh thật đáng yêu! Mày về thưa với ông bà bên nhà chuẩn bị làm lễ cưới mau! Chậm ngày nào thì bố vợ mày muối mặt với dân bản ngày ấy hiểu chứ!

Sa Khả Lân lạy bố vợ rồi đi ngay…

Lò Cẩm Tú kể – Ghi ở Mường Lò 1980.

Nhà kia có cậu bé ham chơi đánh cù quay đến mức con quay quay tít thế nào thì nó mê chơi thế ấy.

Cậu bé đã đến tuổi đi học chữ Thái. Nhưng nó chỉ giả vờ cắp sách đến trường rồi trốn học đi đánh quay. Cho nó dắt trâu đi chăn. Nó buộc trâu vào gốc cây đánh quay với bạn , tối ngày dắt về bụng trâu đói lép kẹp. Cậu bé ham chơi quay đến lúc đói bụng mới tạm ngừng, chạy về nhà, thò tay vào chõ xôi nếp, bốc ăn ngồm ngoàm.

Biết con chơi quay quá trớn đã thành hư, người cha gọi cậu bé đến đầu nhà chỉ lên cái tổ chim sẻ trong ống bương đòn tay:

-Con biết đấy ! Chim sẻ cắp rơm vào cái ống kia làm tổ, đẻ trứng ấp trứng. Trứng nở chim con. Chim cha chim mẹ săn bắt châu chấu cào cào cắp về bón cho đàn con ăn. Đàn con đủ lông đủ cánh, chim cha chim mẹ dẫn chúng ra khỏi ống, dạy bay chuyền trên mái nhà trên cây. Đàn con chăm chỉ tập bay, rồi bay theo chim cha chim mẹ, tập bắt châu chấu cào cào trên cây dưới ruộng lúa làm mồi ăn. Con thấy chim sẻ khác con trai của bố điểm gì không?

-Chim sẻ khác con có cánh bay còn con thì không?

-Chim sẻ khác con ở cái nết chim mẹ chim cha chịu khó làm : Cắp rác xây tổ, săn mồi nuôi con, dạy con tập bay tập săn châu chấu cào cào, chim con chịu khó học bay chuyền, học săn mồi để kiếm sống. Chim sẻ không bao giờ chơi cái trò gì vô ích như con đánh quay cả ngày. Con khác chim sẻ ở điểm ấy. Con hãy học theo chim sẻ bé học tập để lớn lên biết làm ăn nên người. Con chơi quay giải trí một lúc thôi, còn để thời gian học chữ, giúp đỡ cha mẹ việc nhỏ: nhặt củi, đun bếp, quét nhà, tưới rau, nhổ cỏ… Qua đó con được rèn luyện để trở thành người lớn biết lao động kiếm sống sau này. Con hiểu và làm được không?

-Dạ con hiểu và làm được ạ!

Nhưng rồi cậu bé tật nào vẫn thế, quên ngay lời bố dạy bảo, ngày nào cũng trốn học đánh cù, trốn làm đánh quay. Người cha mất nhiều ngày ngẫm nghĩ về cách dậy con mới chợt tìm ra một kế.

Hôm sau như thường lệ, thằng bé trong bụng có kiến bò, vội vàng bỏ ván quay, chạy thẳng lên sàn sục vào bếp, mở nắp chõ, thò tay vào bốc xôi để ăn thì ôi thôi trong chõ đầy những quay là quay…

Không có gì ăn, thằng bé đói quá, vã mồ hôi nhớt, hạ đường huyết sỉu đi. Lúc bấy giờ người cha ở ngoài vườn về, cho uống một cốc nước đường. Dần dần thằng bé mới tỉnh dậy.

Từ ấy cậu bé cai được cái trò nghiện chơi quay, bắt đầu học viết những chữ cái và hái nắm lá chè nấu ấm nước mời cha mẹ uống. Nhớ lại chõ quay, cậu bé cũng không còn hành vi ăn bốc nữa.

Cầm Vân kể- Ghi ở Trường TNDT Lũng Mu 1980.

Không biết xuất hiện tự bao giờ trong các bản mường người Thái có ma cà rồng. Đời cụ truyền cho đời ông, đời ông truyền cho đời cha, đời cha chuyền cho đời con, đời con truyền cho đời cháu rằng: Ma cà rồng cũng là người- thường là người đàn bà xinh đẹp cũng có chồng con làm ăn như mọi người trong bản trong mường. Nhưng ma cà rồng khác người thường ở chỗ luôn giấu ở nơi nó nằm một ống nước vo gạo ngâm xương người. Hễ khát là uống ừng ực. Ma cà rồng đi ăn vào ban đêm. Khi đi nó thọc hai ngón chân vào hai lỗ mũi phát ra ánh sáng xanh lè như đom đóm ma chơi. Nơi kiếm ăn của nó là bãi tha ma, bãi xúc vật chết hay nơi vừa mổ trâu bò lợn dê … còn vương máu tanh hôi. Nó la liếm và gặm xương hút tủy. Nhà nào có người ốm hay người ngủ say, nó mò vào giường chỉ cầm nắm cổ tay hay ghé môi hôn vào cổ là máu truyền sang người nó hết. Dòng máu từ tay từ cổ tuôn vào miệng của nó chỉ trong nháy mắt là cạn hết. Người ốm hay ngủ da xanh xao tím bầm rồi chết. Nhà ai có người chết chưa trôn hoặc trôn rồi đều phải canh giữ, gác nhà mồ, không cho ma cà rồng đến gần bởi nó đưa lá cỏ chè vè vào khe hở của quan tài hút máu tử thi. Ma cà rồng mẹ truyền ma nghiệp cho con, con truyền cho cháu, cháu truyền cho chắt thành huyết thống giòng giống ma cà rồng đời đời kiếp kiếp. Pháp sư thầy cúng cao tay, quan tạo, chúa mường tài ba cũng không trị được ma cà rồng. Khi người ta biết hoặc nghi ngờ người nào đó là ma cà rồng thì phải xa lánh, không bao giờ gần thì mới có cơ may thoát họa hút máu chết uổng.

Một hôm ở bản Thái Nà Bon có một gia đình ở mường Bú tới nhập cư. Hai vợ chồng khỏe mạnh đẹp trai đẹp gái và một đứa con bụ bẫm má hồng môi son như hoa. Họ xin phép trưởng bản cho phát hoang làm ruộng nương vườn tược nhà cửa làm ăn lương thiện. Họ phải rời mường Bú vì không chịu làm cuông cho nhà tạo. Trưởng bản Nà Bon là Khun Sa có quan hệ họ hàng nên bảo lãnh cho họ ngụ cư.

Nhưng thấy gia đình họ là người đẹp hát khắp báo sao hay, thổi pí pặp giỏi thì cho rằng họ là ma cà rồng. Còn đời trưởng bản Khun Sa thì còn có người gần gụi thân thiện. Nhưng từ khi trưởng bản Khun Sa chết, trưởng bản mới là Quảng Tham lên thay thì cái tin đồn họ là ma cà rồng ở mường Bú chạy làng tới Nà Bon khiến dân bản xa lánh hẳn. Người chồng lâm bệnh , người vợ mời thầy lang bản Nà Bon chạy chữa, thầy lang nói :

-Cái ma nhà ta không cho ta chữa bệnh cho chồng nhà chị đâu về đi!

Người vợ lại đi mời thầy cúng, thầy cúng nói:

-Thánh nhà ta thờ kị cái ma nhà chị không cho ta đến cúng đâu về đi!

Thế là người chồng chết. Hai mẹ con sống cô đơn bị cộng đồng bản Nà Bon bỏ rơi.

Thấy người mẹ còn tràn đầy xuân sắc, trưởng bản Quảng Tham lân la đến tán tỉnh gạ gẫm, người đàn bà mới góa chồng chưa mãn tang tát cho trưởng bản một cái cảnh cáo. Trưởng bản Quảng Tham tức điên quát :

-Mẹ con mày là ma cà rồng từ mường Bú sang đây! Trong bản vừa qua có 10 người ốm chết cùng với chồng mày không phải do dịch bệnh mà đều do mày hút máu họ. Sáng mai mẹ con mày phải cút khỏi bản Nà Bon của ta. Nếu không đi thì ông sẽ đốt nhà mày!

Hai mẹ con khóc lóc van xin :

-Ông ơi ! Lạy ông trăm lạy bỏ qua cho người góa chưa qua ba ngày tang ! Gia đình tôi là người lương thiện chạy nạn làm cuông không phải ma cà rồng. Tôi mong ông và bà con Nà Bon đừng tin những kẻ hồ đồ, thành kiến, định kiến, không ưa ai thì nhìn họ tốt thành xấu, thiện thành ác, người lành thành người ma cà rồng. Cùng là con cháu Tạo Cập Ý Kè, Tạo Xuông Tạo Ngần trăm sự cậy ông cho mẹ con tôi được sống yên lành.

Nhưng trưởng bản Quảng Tham không nghe. Sáng hôm sau hai mẹ con vẫn không đi, trưởng bản Quảng Tham sai lính dõng của tạo mường phóng hỏa căn nhà và đuổi họ ra khỏi bản.

Hai mẹ con dắt díu nhau ra đi cầu bất cầu bơ không biết còn sống hay chết ở nẻo rừng nào?

Hai mẹ con dắt díu nhau tới Khe Mo không có người ở, làm cái lều trú tạm, phát cây làm ruộng nương trồng lúa bắp sinh sống. Đất Khe Mo màu mỡ, hai mẹ con ăn nên làm ra, làm được cái nhà nhỏ bền vững hơn. Đứa con gái đã đến tuổi dậy thì rất xinh đẹp. Bà mẹ đặt tên cho con là Son.

Chẳng bao lâu người Thái di cư tới làm ăn đông đúc lập bản gọi là bản Khe Mo. Thấy Son đẹp gái da trắng như trứng gà bóc, nhiều chàng trai đi nhẵn chân cầu thang và chọc sàn nhưng Son chưa ưng chàng trai nào. Do đó đám trai bản kiềng nàng.

Trong bản có lão thầy mo tên là Thèn tuổi lục tuần, vợ sinh năm vịt giời, nên lão thèm đứa con trai nối dõi tông đàng. Nghe tin nhà kia có hai mẹ con không người thân thích, Mo Thèn lân la đến làm quen làm thân. Bà mẹ của Son bị ốm, Mo Thèn bảo có ma làm đã cúng trừ ma giúp. Thi thoảng đi cúng ma về Mo Thèn lại rẽ qua nhà cho gói xôi, cái đùi gà luộc. Rồi một hôm Mo Thèn mang ván xôi con gà trống tơ luộc đến nói chuyện với bà mẹ Son xin cái Son làm vợ lẽ đẻ cho đứa con trai. Nhưng Son không bằng lòng. Mo Thèn bày ra chuyện vứt con lợn chết ở ruộng cách nhà Son chừng vài chục bước có dấu chân của Son đi về đến cổng rồi cho người la lên là mẹ con Son là ma cà rồng đã hút máu lợn. Hai mẹ con Son hoang mang lo sợ kêu lên : “Trời ơi là trời! Mẹ con tôi một lần nữa lại bị vu oan là ma… rồi! Trời ơi!” Mo Thèn nói :

-Mẹ con bà cứ yên tâm! Tôi sẽ trừ được ma cà rồng ra khỏi mẹ con bà.

Mo Thèn lập đàn cúng, đọc thần chú, cho Son uống nước cúng thần thành người nửa tỉnh nửa mơ, ngủ với Mo Thèn cùng giường mà tưởng là ân ái với chàng trai mà mình yêu. Thế rồi Son có chửa sinh ra một cô bé chưa được ba ngày thì bà mẹ của Son lâm bệnh chết. Mo Thèn bị vợ đánh ghen và Son không đẻ cho lão con trai. Thế là lão phao tin mẹ con Son là ma cà rồng trắng trẻo rất đẹp gái đã hút máu bà lão chết.

Tạo đến khám nhà thì thấy cái lọ nước vo gạo ngâm miếng xương lợn ở đầu gậm giường kết luận mẹ con Son là ma cà rồng phải ra khỏi bản Khe Mo. Lính tạo đốt nhà, đuổi hai mẹ con Son bồng bế nhau đi biệt mường.

Son địu con gái lội suối vượt rừng lến núi Cấm tìm được cái hang đá làm chỗ ở, hái rau quả rừng, bắt con sóc con chuột làm thức ăn nuôi con, lúc con ngủ thì phá hoang trồng ngô bầu bí khoai nương để sinh nhai, lấy măng mộc nhĩ lén xuống bản xa bán lấy tiền mua muối. Mấy năm qua hai mẹ con Son trở thành người rừng.

Ngày ấy vua Lê Hồng Đức trị vì khai sáng trí tuệ cho dân. Tổng bản mở trường học. Một anh giáo trẻ người Kinh tới bản Khe Mo mở lớp. Lớp học có 10 trò con nhà phìa tạo và nhà giầu học chữ nôm Thái. Anh giáo rất thích đi săn đã bị lạc trong núi Cấm không biết đường về. Đêm tối thấy có ánh lửa trong hang đá, anh giáo đã tìm đến thì gặp hai mẹ con người rừng. Đói mệt lả đi, anh giáo được hai mẹ con người rừng cho ăn củ sắn nướng thịt chuột dang và uống nước ống bắng nên tỉnh lại. Sáng hôm sau anh giáo được người mẹ rừng dẫn đường chỉ lối ra khỏi núi Cấm về bản Khe Mo.

Anh giáo nói chuyện với tạo bản chuyện lạc rừng được hai mẹ con người rừng cứu. Tạo bản Khe Mo nói :

-Không phải người rừng đâu. Đó là hai mẹ con Son là ma cà rồng ở Khe Mo bị đuổi lên núi Cấm. Anh giáo mà để lộ chuyện này thì dân bản bảo anh là ma cà rồng vì đã ở với ma cà rồng dù là một đêm, thì lớp học tan mất, không ai học anh giáo nữa đâu.

Anh giáo có nghe chuyện ma cà rồng nhưng không tin. Anh giáo cho rằng đó là chuyện huyền hoặc như con ngáo ộp của người kinh để đe dọa trẻ thơ. Song ma cà rồng của người Thái trở thành thứ ma ám ảnh là đàn bà đẹp hiện hữu sống như mọi người nhưng hút máu người thực hư chưa bao giờ được phán xét phân minh. Dựa vào thói đời hồ đồ, dễ tin, định kiến, thành kiến mà những kẻ ác tư lợi đã lợi dụng để vu oan đày đọa trả thù cá nhân những người lương thiện mà họ không ưa. Chỉ có những kẻ ác có uy thế như tạo bản , thầy mo nói ai đó là ma cà rồng thì cả bản tin ngay và xua đuổi người ta. Thế là anh giáo bí mật mang gạo muối quần áo và cái chăn của mình lên núi Cấm vào hang đá thăm hai mẹ con Son, tìm hiểu để giúp họ trở về với cộng đồng làng bản. Nhưng không gặp, anh giáo để quà lại hang. Anh giáo cho rằng mẹ con Son sợ anh đưa người lên bắt nên đi trốn. Quá tam ba bận lên thăm họ thì anh giáo mới được gặp lại. Khi đã tin lòng bụng anh giáo tốt, Son kể cho anh giáo nghe gia đình cô đã hai lần bị vu oan là ma cà rồng. Lần thứ nhất ở bản Nà Bon do trưởng bản Quảng Tham tán tỉnh mẹ Son không được đã làm hại. Lần thứ hai do không đẻ cho Mo Thèn đứa con trai nên bị lão ta bày trò vu oan Son và bé gái sơ sinh là ma cà rồng. Son định mượn nắm lá ngón qua đời nhưng thương đứa con sơ sinh vô tội nên đã cắn răng chịu sống để nuôi con thành người. Anh giáo nghe Son kể thấy việc bất công, mất nhân quyền thì tức lắm và thương hai mẹ con Son bị phìa tạo và thần quyền Thái làm hại. Anh giáo quyết định dấn thân đấu tranh xóa bỏ thói định kiến thành kiến ghét ai thì vu người ấy là ma cà rồng, lật tẩy bộ mặt thật của Mo Thèn, đưa mẹ con Son trở về quê Khe Mo. Anh giáo thuyết phục tạo bản Khe Mo nhận thức về cái gọi là ma cà rồng có thật hay không, hay chỉ là ám ảnh do định kiến thành kiến truyền kiếp ? Rồi kể nguyên nhân chính hai lần gia đình nhà Son bị vu oan là ma cà rồng bị đuổi ra khỏi bản. Tạo bản Khe Mo, từ chỗ tin có ma cà rồng, nay nửa tin nửa ngờ, nhưng không dám quyết đoán nhận hai mẹ con Son trở lại bản. Tạo bản nói :

-Việc này khó lắm! Mo Thèn và dân bản sẽ bảo tôi và anh giáo đều là ma cà rồng thì nguy hiềm khôn lường. Có lẽ ta phải kêu lên quan chi châu giúp đỡ xem sao?

Nói trong có kẻ nghe ngoài. Chuyện anh giáo muốn cứu mẹ con Son trên núi Cấm đến tai Mo Thèn thế là lão tức điên nói một mình :

-Thằng thầy đồ có trí thức nó định kiện mình đây! Phải xóa bỏ lớp học mà nó truyền bá khoa học chống thày mo. Phải đuổi nó ra khỏi bản Khe Mo càng sớm càng tốt.

Thế là lão loa lên anh giáo đi lại với ma cà rồng đã biến thành ma cà rồng. Sáng hôm sau anh giáo lên lớp vắng tanh không một học trò. Dân bản kéo nhau đến nhà tạo đề nghị đuổi anh giáo ma cà rồng. Anh giáo sợ liên lụy đến tạo bản Khe Mo đành phải đi gặp quan chi châu nhờ can thiệp. Quan chi châu Mường Lò nói :

-Tôi đồng ý với thầy giáo là không có ma cà rồng! Muốn xóa bỏ nỗi ám ảnh đó phải có thời gian. Khi nào dân trí được nâng cao thì họ tự bỏ điều tin nhảm. Dân trí còn thấp bao nhiêu thì thế lực thầy mo càng cao bấy nhiêu. Dân nghe thầy mo hơn nghe quan. Lúc này ý tưởng của thầy giáo lớn lắm, đi trước thời đại rất xa, ngày nay chưa đủ điều kiện thực hiện. Có lẽ phải 5 thế kỉ nữa mới giải quyết được tận gốc vấn đề ! Về việc cứu hai mẹ con cô Son chưa về bản Khe Mo được đâu. Với tư cách cá nhân, thầy giáo có thể đưa họ xuống thị trấn làm ăn sinh sống với đồng bào các dân tộc ít định kiến thành kiến hơn và phải tạo cho họ một cái lai lịch mới ! Còn việc dạy học của thầy giáo thì phải lên quan Đốc học xin chuyển sang một châu phủ khác.

Được quan chi châu giúp đỡ, anh giáo trở lại núi Cấm đưa mẹ con cô Son xuống thị trấn Mường Lò, làm một cái lều ở gần chợ , được anh giáo giúp một ít tiền vốn làm nghề buôn thúng bán mẹt nuôi con. Ít lâu sau, Son còn trẻ xinh gái đã kết duyên với một người Kinh buôn muối sống hạnh phúc. Anh giáo đi gặp quan Đốc học không biết chuyển việc gõ đầu trẻ ở nơi đâu?

Dạy khỉ bỏ nghề phá lúa bắp

Ngày ấy khỉ trên núi Pú Chạng kéo xuống Mường Lò lấy trộm ngô lúa mang về núi đông kìn kìn. Con nào con ẫy lấy dây rừng cuốn quanh thân làm thắt lưng vặt lúa bông ngô bắp dắt đầy khệ nệ mang về hang núi. Chỉ một buổi sáng khỉ lấy sạch một khu ruộng lúa ngô rộng mênh mông. Trưởng bản Lò Quảng Thống lần theo lúa rơi lên núi Pú Chạng vào hang đá thấy lũ khỉ giấu lúa ngô đầy các khe đá trên thành hang cao chót vót. Nhìn kho lúa ngô của khỉ, ông kêu lên :

-Then ơi! Khỉ cướp lúa bắp thế này thì người Thái người Xá lâm nạn đói đến nơi rồi! Làm thế nào để trừ khỉ cứu dân Then ơi!

Trưởng bản Lò Quảng Thống tập trung dân bản mang chiêng trống gậy gộc ra đồng canh ruộng xua đuổi ầm ĩ, khỉ sợ chạy đi nhưng khi người trở về bản thì khỉ lại xuống phá lúa bắp.

Trưởng bản Lò Quảng Thống mất ăn mất ngủ nghĩ cách trị khỉ. Ông nhớ ngày là học trò một thầy đồ dạy chữ Thái có kể một câu chuyện Trạng Quỳnh bắt trộm mèo của vua Lê dưới Kẻ Chợ đã luyện mèo bằng cách để một bát cá và một bát rau. Nếu mèo ngửi bát cá thì Trạng quất cho một roi. Quá tam ba bận quất thì con mèo chỉ còn biết ăn rau. Vì thế vua Lê không đòi lại được mèo bởi mèo của vua quen ăn cá thịt. Vậy thì ta cũng phải dùng roi phạt khỉ để dạy khỉ bỏ nghề phá lúa bắp tất sẽ thành công.

Thế là ông cho đan bốn cái lồng tre hình vuông, trong treo những cum lúa bắp ngô. Phía trên ngỏ cửa để thang cho khỉ chen nhau vào thì thang rơi cửa sập xuống để bẫy khỉ đầu đàn và đồng bọn. Bốn lồng bẫy đó ông cho đặt ngay trên đường đi lấy lúa ngô của khỉ. Kết cục ông bắt được bốn lồng khỉ vài chục con và con khỉ già đầu đàn cho khiêng về nhà. Dân bản kéo đến nhà xem và hy vọng làm thịt để ăn cỗ còn xương khỉ nấu cao làm thuốc bổ cho trẻ em người già. Nhưng ông bảo :

-Tôi không giết thịt khỉ đâu. Tôi chỉ dạy nó từ bỏ thói cướp phá lúa ngô rồi thả chúng về núi Pú Chạng bảo nhau không xuống ruộng mường Lò của bà con bản ta nữa.

Nói rồi ông xích con khỉ già đầu đàn buộc vào gốc cây cho ngồi xem ông dạy lũ khỉ đàn. Ông cuốn dây quanh bụng 10 con khỉ dắt đầy lúa bông và bắp ngô. Xung quanh ông đặt bốn lồng khỉ còn lại cho xem ông cầm roi dạy khỉ. Ông vừa nói vừa quất roi vào mười con khỉ mang lúa bắp:

-Cướp phá lúa bắp của người này ! Còn phá lúa bắp ông còn đánh cho chết!

Tiếng roi mây vun vút. Tiếng khỉ kêu chí chóe khèng khẹc như là van xin inh ỏi. Con khỉ đầu đàn và bốn lồng khỉ nhìn thấy mà nhe răng, rúm mặt, mắt đỏ ngầu như vừa khiếp sợ, vừa thương xót, vừa giận tức căm thù người đánh đồng loại của nó. Ngững con khỉ bị đòn tươm tướp máu rơi trên đầu trên mặt khiến con khỉ đầu đàn chắp hai tay lạy như van xin ông trưởng bản tha tội cho chúng, đừng đánh nữa, chúng biết tội tồi. Ông ngừng tay nói :

-Hãy nhớ đòn mà về bảo nhau đừng xuống ruộng phá lúa bắp nữa. Nếu còn xuống thì còn ăn đòn nhiều hơn !

Con khỉ đầu đàn lại lạy ông lia lịa. Ai trông thấy cũng buồn cười.

Chiều hôm đó ông cho khiêng bốn lồng khỉ trả về núi Phú Chạng. Sáng hôm sau ông lại lên núi Pú Chạng quan sát thì không thấy một bóng khỉ nào xuống cánh đồng Mường Lò nữa.

Từ ấy người Thái người Xá mường Lò thoát nạn khỉ cướp phá lúa bắp. Nạn đói không còn đe dọa những ngày giáp hạt nữa. Câu chuyện trưởng bản Lò Quảng Thống dạy khỉ từ bỏ nghiệp cướp phá lúa bắp còn truyền đến ngày nay.

Lò Cẩm Tú kể- Ghi ở Mường Lò 1980.

Mối tình già bên dòng Nậm Thia

Ngày ấy, ở bản người Thái bên dòng Nậm Thia Mường Lò có chàng trai mới lớn tên là Cầm San lúc nào cũng ngóng nhìn lên đầu núi có nhà Lường Siêng. Đôi mắt chàng đau đáu như dán vào khăn piêu áo cỏm của ún Siêng.

Đêm đêm chàng cầm cây đàn tính tẩu gẩy tình tang rồi chọc sàn nhà ún Siêng. Chọc đi chọc lại nhiều lần theo nhịp điệu gọi gái : ” pạp pàm pạp”. Đến lần thứ bao nhiêu không nhớ hết ún Siêng mới đáp tình chàng. Hai người yêu nhau gắn bó như rêu với đá suối. Những đêm trăng sáng ngời ngợi ánh vàng lấp lánh Nậm Thia, hai người dạo trên bờ theo nhịp đàn tính tẩu, cùng hát khắp báo sao. Giọng chàng nam trầm lời yêu nồng nàn: ” Anh thấy em đẹp nhất mường Lò. Miệng cười tươi như hoa ban. Búp tay như măng sặt. Tóc như mây suối ngàn. Anh muốn lấy em về làm vợ… Không lấy được em làm vợ thì anh làm loạn giữa bản, làm giặc giữa mường… Không cưới được em mùa hạ anh sẽ chờ mùa đông… Không lấy được em lúc trẻ, anh sẽ cưới em khi góa bụa về già…” Giọng nàng nữ cao lời yêu thánh thót: ” Anh ơi ! Ta yêu nhau như đôi chim nộc co ke. Nếu mẹ cha gài lá cấm cửa trước thì anh cứ đến cửa sau. Nếu cửa sau căng chỉ đen buộc nút thì anh vào qua chái nhà, là con chim hót trên khau cút… Em sẽ mãi theo anh…”

Cầm San và Lường Siêng đang yêu nhau say đắm thì nhà vua bắt lính. Chàng phải ra trận. Hai người chia li chưa kịp nhờ bà mờ làm lễ dạm hỏi. Buổi nhập ngũ, nàng tiễn chàng nước mắt ràn rụa như mùa lũ Nậm Thia.

Lường Siêng đang chờ đợi tin tức của người yêu ngoài chiến trường thì đêm đêm trai bản rậm rịch dưới gầm sàn. Người thì thổi pí pặp, kẻ thì chọc gậy ” chọp chọp chọp “. Lường Siêng nghe những tiếng chát chúa khô khốc phải lấy bông nút kín hai lỗ tai.

Trong bản có gã Lò Pàn nhờ bà mờ mang lễ vật đến dạm hỏi xin ở rể. Cha mẹ gọi Lường Siêng ra nói :

-Từ nay con dệt vải và thổ cẩm may thêu quần áo chăn gối khăn chuẩn bị về nhà chồng. Cha mẹ đã đồng ý gả con cho chàng Lò Pàn giầu sang phú quí. Con sẽ được hưởng hạnh phúc trăm năm sung sướng nhất mường.

Lường Siêng khóc lóc thảm thiết nói :

-Thưa cha mẹ! Việc trăm năm con xin cha mẹ cho con tự quyết định! Con không muốn lấy gã Lò Pàn là con ma xó gần bằng tuổi bố! Con đã hứa lấy anh Cầm San rồi! Sau ba năm mãn lính thì chúng con xin phép cha mẹ được cưới nhau !

-Mày mất nết từ bao giờ thế ? Xưa nay cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy mày biết chứ ? Thằng Cầm San ra trận chỉ có ăn đạn giặc mà thôi! Mày định cưới con ma chém giết làm chồng à? Nếu nó sống trở về mày định nấu dây lưng da trâu lính tráng của nó làm cháo mà húp à! Hãy từ bỏ ngay cái ý nghĩ đại dột đó. Nếu không thì mày cút khỏi nhà tao ngay!

Nói rồi người cha cầm con dao quắm chém một nhát ngập lưỡi vào cây cột nhà sàn.

Lường Siêng giật mình hoảng sợ. Từ hôm ấy, nàng buồn rười rượi, bất đắc dĩ phải ngồi vào ghế khung cửi.

Biết nàng không ưng lấy mình, Lò Pàn chờ một hôm Lường Siêng lên nương, trước mắt những chàng trai bản, gã săn đuổi nàng ôm ghì xé hàng cúc bướm ngực áo cỏm, để nhìn bằng được hai bầu vú nây nẩy của nàng.

Lường Siêng vô cùng xấu hổ theo lệ cổ đành phải ngậm bồ hòn nhận lễ dạm, ở rể và cưới của gã Lò Pàn. Nàng làm vợ Lò Pàn nhưng vô cùng đau khổ khi mỗi lần thổn thức nhớ đến mối tình đầu của mình với Cầm San.

Ba mươi mùa măng ngọt măng đắng trôi qua. Cầm San tóc đã điểm sương mới được ra quân trở về bản. Người mường Lò không còn ai nhận ra được Cầm San nữa. Người ta gọi Cầm San là ông Ké.

Ké San đi tìm Lường Siêng thì gặp một bà mế đầu tóc bạc phơ bên bờ Nậm Thia nơi ngày xưa hai người đi dạo vừa đàn tính tẩu vừa hát khắp báo sao không bao giờ quên. Hai người sững sờ nhìn nhau nhận ra đôi mắt của nhau như người trong mơ như người ngày xưa. Ké San hỏi trước:

-Có phải bà là Lường Siêng mà tôi vẫn chờ?

-Phạ ơi! Ông là Cầm San mà tôi vẫn nhớ ! Bấy lâu ông ở đâu sao không về ?

Ông ké Cầm San mời bà mế Lường Siêng đến gốc cây cổ thụ ngồi hàn huyên. Ông kể cho bà nghe 30 năm một chặng đời mình làm lính canh biên cương rồi làm tình báo nằm vùng ở nước ngoài nay đã lục tuần mới được hồi hương hưu trí. Ông nói :

Bà mế rơi nước mắt nghẹn ngào nói :

Ông ké Cầm San cũng rưng rưng nói :

-Tôi không bao giờ khinh bà. Tôi biết số phận của tôi và bà không cưỡng lại được kiếp trần chiến tranh và tăm tối. Do đó tôi và bà đều chịu bất hạnh ba thập niên. Chữ trinh kia cũng dăm ba bẩy đường. Người ta chỉ giữ được hồn trinh chứ không giữ được phách trinh. Then cho chúng ta còn được gặp lại nhau hôm nay tiếp tục chắp nối mối duyên đầu. Tình trẻ chúng ta dở dang. Nay chúng ta đoàn viên xây dựng mối tình già. Tôi tin không còn một thế lực đen tối nào chia rẽ chúng ta nữa! Ngày mai tốt lành tôi muốn đón bà về ở chung một nhà!

Trước tình yêu chung thủy của ông ké Cầm San, bà mế Lường Siêng không thể từ chối đã đáp tình.

Bên bờ Nậm Thia êm đềm, khi trái gió trở trời , lúc tắt lửa tối đèn có nhau, họ sống những ngày cuối đời thật hạnh phúc có hậu duyên.

Cầm Vân kể- Ghi ở Trường TNDT Lũng Mu Mường Lò 1980.

Ngày ấy ông ké đi rừng gài bẫy được một chú nai con thật kháu khỉnh. Đôi mắt to, đôi tai dỏng cao, thân hình thon thon, bốn chân nhỏ dài chụm, cái đuôi cộc cũn cỡn.

Đứa cháu lên năm tuổi của ông ké rất yêu quí con nai con, không phút nào rời xa. Lúc thì cháu bé vuốt ve chuyện trò với chú nai con, lúc thì hái quả sung, bẻ cây rau vườn cho ăn. Cháu bé hỏi:

-Đằng ấy có mẹ không?

-Đằng ấy có nhớ mẹ nhớ rừng không?

-Đằng ấy có muốn về với mẹ với rừng không?

Cháu bé hỏi rồi lại thay lời nai con đáp :

-Thưa: Tôi có mẹ. Tôi sa bẫy chắc mẹ tôi rất buồn và đang đi tìm tôi!

-Thưa: Tôi rất nhớ mẹ và rất nhớ rừng!

-Thưa : Tôi rất muốn về với mẹ với rừng! Cậu có thể giúp tôi được không?

-Được lắm chứ ! Nhưng phải được ông ké của tôi đồng ý đã!

Chiều hôm ấy có người khách dưới xuôi vào nhà hỏi mua chú nai con nói dối là nuôi lấy nhung nhưng để nấu cao tồn tính làm thuốc gọi là cao Ban Long. Ông ké định bán, thì cháu bé ôm chặt lấy chú nai con khóc lóc nói :

-Ông không được bán bạn nai của cháu ông ơi! Cái ông Keo kia không được mua bạn nai của tôi. Hãy về đi!

Mấy ngày sau, bà con trong bản mang bầu nậm rượu đến nhà nói :

-Nghe tin ké bẫy được nai tơ, chúng tôi mang rượu đến ăn cỗ khao thịt nai đây!

Thế là đứa cháu của ông ké ôm lấy chú nai khóc lóc nói :

-Các người muốn uống rượu nhắm thịt nai bạn tôi thì trước tiên hãy cắt tiết tôi nướng chả mà xơi, còn bạn nai của tôi hãy trả về rừng với mẹ nai của bạn ấy !

Trước khẩu khí có đức hy sinh lớn vì tình bạn động vật của cháu bé, mọi người ngạc nhiên, cảm phục và thôi ý đồ giết thịt chú nai con. Ông ké ôm cháu bé vào lòng vỗ về nói :

Đúng như lời hứa, hôm sau ông ké địu cháu bé sau lưng,hai tay bế chú nai con vào rừng tìm nai mẹ và thả chú nai con ra. Chú nai con cuốn quít bên hai ông cháu một lát rồi lon ton chạy đến với mẹ đang đứng chờ phía xa. Hai ông cháu nhìn hai mẹ con chú nai dẫn nhau đi khuất bụi cây rồi mới trở về.

Từ hôm ấy, ngẫm nghĩ về lời nói thiêng tuổi thơ của cháu mình, ông ké bỏ hẳn nghề bẫy thú rừng.

Lại nói người cháu của ông ké lớn lên làm quan kiểm lâm bảo vệ cây cỏ và muông thú rừng. Một hôm kiểm tra rừng không mang chó săn và vũ khí, quan kiểm lâm đang đi thì một con hổ rượt theo định tấn công phía sau lưng. Bỗng có tiếng nai kêu kéc kéc. Quan kiểm lâm quay lại thì thấy một con nai đực có bộ sừng kềnh càng chạy ra chặn đường hổ phi rồi chạy vụt đi khiến con hổ bỏ người để rượt theo nai. Nhưng đến dòng suối thì con hổ dừng lại. Nhờ đó Quan kiểm lâm cháu ông ké thoát nạn. Quan kiểm lâm tự nhủ : “Ở hiền gặp lành. Ngày nhỏ mình cứu chú nai con, giờ được bác nai già trả ơn cứu mình.”

Cầm Ngọc Tú kể – Ghi ở Mường Lò 1980

Trong rừng có một hồ nước trong xanh đầy cá tôm cua ốc. Cuối mùa hạ đàn vịt trời bay về bơi lội tung tăng kiếm ăn và làm tổ trên bờ cỏ đẻ trứng ấp trứng nuôi con.

Một đêm trời sao vằng vặc. Một cô vịt rúc đầu vào cánh đang mơ giấc thần tiên trên tảng đá bờ hồ. Chàng cáo trong rừng mò ra làm bữa tiết canh thịt vịt. Trông thấy cô vịt ngủ say, chàng cáo bước đi thật nhẹ nhàng đến vồ từ phía sau. Cô vịt không kịp vỗ cánh bay nên bị cáo bắt. Nhưng cô vẫn bình tĩnh cạc cạc nói :

-Chàng cáo ơi! Trước khi ăn thịt ta hãy nghe ta nói đã. Nếu không nghe ta thì rồi ngươi sẽ ân hận không kịp đấy!

Chàng cáo ngạc nhiên, hai chi trước giữ hai cánh cô vịt, miệng đáp :

-Nào nói đi ! Tao nghe xong thì ăn thịt mi càng ngon miệng!

Cô vịt ngửa mỏ hướng lên bầu trời có chòm sao Vịt sáng lồng lộng bảo:

-Chàng có nhìn thấy chòm sao kia hình gì không? Vì sao mà có hình ấy?

-Người ta gọi là… chòm sao Vịt… Ngoài ra… tao không biết gì hơn !

-Then cho dựng hình ta trên vòm trời để cho muôn loài hạ giới thấy ta là chúa tể của thiên hạ! Nếu Then biết ngươi xúc phạm thể xác ta thì cả loài cáo nhà mi bị Then phạt chết không còn một mống đấy!

-Mày nói láo, tao không tin !

Cô vịt giọng cứng cỏi thách thức :

-Cạc cạc! Không tin thì hãy thử xem!

Nghe xong, chàng cáo vốn sợ chết nên phân vân và từ từ buông hai chi trước ra. Cô vịt vỗ cánh bay vù lên trời sao, phóng một bãi cứt trắng vào mặt chàng cáo, eo ôi hôi thối kinh tởm quá chừng…

Quảng Đại kể- Ghi ở Trường TNDT Bảo Hà 1981.

Ngày ấy, ké Sung đi rừng bắt được một chú hổ con sa xuống hố đào củ mài. Ké Sung bắt nó bỏ vào lù cở địu về nhà. Các con các cháu và bà con chòm xóm đến nhà xem đều nói :

-Ông bà bố mẹ con hổ con đều xuống bản bắt trâu bò dê lợn chó và người để ăn thịt. Con hổ con này lớn lên sẽ trở thành con ác thú nguy hiểm lắm . Tốt nhất ké nên nấu nước làm lông mổ thịt nấu cháo mà ăn cho bổ gân cốt và trừ được mầm họa về sau.

Ké Sung nghe chỉ cười khì. Ké bảo:

-Con người con vật đều có tính hiền tính thiện và tính dữ tính ác trời cho. Một khi đối xử với nhau hiền thiện thì được hiền thiện, ăn ở với nhau dữ ác thì được dữ ác. Đó là lẽ tự nhiên. Loài hổ là thú ăn thịt các loài trâu bò hươu nai dê lợn được Then cho phép để bảo vệ cây cỏ núi rừng không bị tàn phá sạch sanh. Từ ngày loài người biết ăn thịt, săn bắn, bẫy bắt thú rừng tranh ăn với hổ nên bị hổ ghét. Hổ mất hết nguồn sống trong rừng nên phải xuống bản bắt trâu bò dê lợn nuôi của người. Người săn bắn hổ lấy thịt hầm ăn, lấy xương nấu cao hổ cốt làm thuốc, lấy da làm vật trang trí, nên hổ thù người, cắn chết người ăn thịt là lẽ tất nhiên. Nếu người không gây chiến tranh diệt hổ mà ăn ở với nhau thân thiện thì người ta có thể cưỡi hổ đi chơi và hổ bảo vệ ruộng nương giúp người không bị trâu bò lợn dê rừng phá hoại. Do đó tôi nuôi con hổ con này cho mọi người xem lớn lên nó hiền thiện hay dữ ác sẽ biết!

Từ ấy ké Sung nuôi chú hổ con như nuôi chó nuôi mèo. Ké ăn thức gì cho hổ ăn thức ấy. Ké đi đâu hổ cũng đi theo cuốn quít bên chân không rời xa. Dần dần ké sai bảo được hổ như sai bảo người.

Chẳng bao lâu hổ con lớn lên trở thành chàng hổ tráng kiện oai phong lẫm liệt. Hổ giúp ké trông nương ngô rẫy lúa không cho khỉ lợn rừng quấy phá. Thi thoảng hổ còn tha về cho ké một con lợn rừng làm thịt mời cả bản tới nhà ăn cỗ. Ké Sung không muốn chàng hổ làm thợ săn, liền bảo vác lợn trả lại rừng. Sau đó chàng hổ không bắt lợn rừng về nhà nữa.

Một hôm ké Sung chẳng may sẩy chân bị ngã sưng đầu gối không đi được. Chàng hổ ngửi ngửi liếm liếm vết thương của ông rồi phóng vào rừng một lúc sau trở về trên miệng tha một chùm cành lá đặt trước chủ gật đầu như nói:

-Con lấy cây thuốc về cho bố giã dắp vết thương sẽ khỏi ngay!

Ké Sung làm theo, sau một lần đắp thuốc, đầu gối không sưng nữa, mấy ngày sau khỏi hẳn. Ké Sung đi lại bình thường ôm đầu chàng hổ vỗ về nói :

-Ta cảm ơn thầy lang của ta nhiều lắm ! Chắc là trong huyết thống của con mang những bài thuốc hổ truyền phải không?

Chàng hổ lại gật đầu lia lịa như nói :

Mấy ngày sau, ké Sung dẫn chàng hổ đến nhà con gái chơi. Trong chòm bản có tiếng khóc người chết. Hỏi ra thì biết thân nhân của nhà chồng con gái. Chàng hổ cắn gấu quần ké Sung lôi đi theo hướng mũi ngửi đánh hơi tử khí đến nhà có người chết. Tử thi là một cậu bé da dẻ bầm tím thân lạnh toát. Chàng hổ ngửi ngửi rồi phóng một mạch vào rừng tha về một nắm lá xanh hoa trắng quả bạch. Ké Sung hiểu ngay đó là thuốc cải tử hoàn sinh trong truyện cổ tích liền cho vò ra thành nước giót vào miệng tử thi còn bã đắp quanh thân, trùm cái chăn thổ cẩm lên che kín. Chẳng mấy chốc cậu bé hất cái chăn thổ cẩm ra ngoài, ngồi dậy ngơ ngác nói:

-Cháu vừa ngủ một giấc dài sao?

Ké Sung được cha mẹ của cậu bé biếu một túi tiền bạc trắng nhưng ông nhất định không lấy, chỉ cùng chàng hổ dự một bữa cơm thiết đãi của gia đình có món cá sỉnh nướng ăn với cơm nếp lam bằng ống nứa non.

Từ ấy dân bản phong chàng hổ của ké Sung là Thầy Lang Hổ chuyên việc chữa bệnh cứu nhân độ thế.

Nhận được tờ sức của quan chi châu chột mắt, trưởng bản Hát Lót sợ run, cho gọi ké Sung lên bảo :

-Ông phải nộp Thầy Lang Hổ lên quan. Nếu không thì bản bị đốt sạch. Đây ông xem tờ sức của quan chi châu !

Xem xong, ké Sung ra về suy nghĩ rất lung. Ông quyết định tránh tai họa cho bản, liền đưa Thầy Lang Hổ lên núi Púng Luông vào hang đá ẩn trốn. Nhưng rồi núi Púng Luông bị phìa tạo các bản lùa thanh niên trai tráng mang trống chiêng chó săn súng ống vây quét săn bắn hổ. Thầy Lang Hổ đang uống nước dưới lòng khe thì bị trúng đạn chết. Phìa tạo mường Luông cho khiêng con hổ đực vừa bị hạ về nộp cho quan chi châu lấy thưởng.

Quan chi châu lọc thịt làm cỗ khao quan quân, còn xương cho cạo sạch rửa nước rượu phơi khô đóng gói dâng tiến vua. Vua cho quan Hổ học phân tích đúng là bộ xương hổ đực thượng hạng bèn khai lò dậy bách quan kĩ thuật nấu cao hổ cốt. Đồng thời nhà vua sắc phong cho quan chi châu chột mắt thăng quan trưởng quản lộ trấn Qui Hóa.

Quan chột mắt mở tiệc nhậm chức ba ngày liền. Các quan và lính dưới quyền mỗi người chúc tân quan một chén rượu ngô Bắc Hà. Thế là quan chột mắt đột quị chết lăn quay.

Vợ quan kêu trời thảm thiết cho mời thầy lang chín châu mười mường đến cấp cứu. Các thầy lang đều bó tay. Một thầy lang ở mường La nói :

-Ở bản Hát Lót có ké Sung nuôi một con hổ biết hái thuốc cải tử hoàn sinh đã từng cứu sống được nhiều người.

Vợ quan chột mắt liền cho đi đón ké Sung về dinh phủ chạy chữa. Ké Sung nói :

-Đúng là tôi có nuôi một Thầy Lang Hổ biết bài thuốc cải tử hoàn sinh. Nhưng tôi lại không biết vị thuốc. Thầy Lang Hổ chữa được nhiều người chết sống lại thì tiếc thay ngài đã bị phìa tạo thực hiện tờ sức của quan trên bắn chết ở khe suối Púng Luông và khiêng nộp quan chi châu để lấy thưởng rồi!

Vợ quan chột mắt ôm thi hài chồng la khóc:

-Ới anh là anh ơi! Chính anh đã sai xả thịt lóc xương tiến vua Thầy Lang Hổ cứu nhân độ thế rồi! Lấy ai cải tử hoàn sinh cho anh bây giờ, anh ơi!…

Thầy Lang Hổ bị chết oan khiến ké Sung và những người dân được cứu bệnh vô cùng đau buồn thương tiếc đã lập miếu thờ và tôn vinh ngài là Thần Y Hổ.

Quảng Đại kể- Ghi ở Trường TNDT Bảo Hà 1981.

Ngày ấy, Then tạo ra muôn vật. Mỗi vật có bổn phận quyền hạn nghĩa vụ nhất định và cách sống riêng trong trời đất. Hầu hết các vật không kêu ca than thân trách phận so sánh thiệt hơn ganh tị và mơ ước hão huyền. Song chỉ có con chuột là không thỏa mãn vai trò của mình trong giới động vật.

Đêm đêm chuột rúc kêu trời:

-Khổ thân nhà chuột quá! Ban ngày không dám ra khỏi hang vì sợ diều hâu chim cắt trăn rắn ăn thịt. Ban đêm mới ra khỏi hang kiếm ăn vẫn không tránh khỏi móng vuốt răng nanh mèo, mỏ khoằm cú mèo cú lợn. Ông trời ơi hãy cho chúng tôi được đổi đời thành mèo có được không? Mèo là khát vọng bao đời của chúng tôi nằm trong mộ vẫn còn mơ ước. Ông trời có thấu cho chăng?

Then ngủ không yên, giáng trần gặp chuột nói :

-Không muốn làm chuột thì ta cho ngươi biến thành mèo !

Thế là chuột từ từ biến thành mèo mắt xanh lè, hai răng nanh trắng nhọn hoắt, tứ chi có móng vuốt sắc, áo lông vằn vèo, ngày ngủ hai phần ba thời gian, giờ tý trở dậy đi săn mồi, kêu meo meo. Trên đường đi bị chó phát hiện sủa gâu gâu săn đuổi. Mèo phải trèo lên cây mới thoát nạn chó thì lại gặp gà trống chân có cựa đạp, vung mỏ nhọn xỉa, mèo lại nhảy xuống đất chạy re. Mèo chui vào nhà người cạy vung nồi ăn vụng cá kho thì bị bà già cầm đũa cả đánh túi bụi phải bỏ chạy. Vậy mèo chưa phải là con vật oai phong và sung sướng gì. Chuột hóa Mèo lại muốn làm chó liền kêu trời :

-Trời ơi là trời chuột làm mèo khổ lắm! Hãy cho chuột hóa mèo đổi đời làm chó có được không?

Then nghe tiếng lại giáng trần nói :

-Con chuột kia không muốn làm mèo thì ta cho ngươi biến thành chó !

Tức thì mèo hiện ra con chó mắt cánh gián, trán bánh chưng, lưng tôm càng, tứ chi cao, đuôi phất cờ, miệng sủa gâu gâu. Ngày đêm chó săn gà, đuổi mèo, dồn cáo, cắn chuột, sủa kẻ trộm, ăn cơm vãi đất, gặm xương, tranh nhau ăn, cắn nhau nhe răng kêu ăng ẳng om sòm. Trát lệnh quan trên xuống bản phòng bệnh dại, phìa tạo cho lính vác mã tấu chém chó chết vô tội vạ. Chó chạy vào rừng thì bị hổ gầm săn bắt ăn thịt. Ôi con hổ mới oai hùng làm sao!

Vậy là con chuột làm chó chẳng thấy sướng tý gì, lại muốn làm con hổ ngẳng mõm chu trời :

-Làm thân con chó khổ lắm trời ơi! Hãy cho chó đổi đời thành hổ mới sống nổi !

-Chán thân phận chó thì ta cho ngươi làm hổ!

Thế là chó hóa thành hổ cao to lực lưỡng, tứ chi mập mạp, móng vuốt nhọn sắc, bước đi oai vệ đường hoàng êm ái, hai răng nanh nhọn hoắt như dao găm, đôi mắt xếch sắng quắc, y phục vằn vèo, râu vểnh ngạo mạn, tiếng gầm rất chúa sơn lâm, muôn loài thú ăn cỏ nghe tiếng phải im hơi. Hổ đi đến đâu trâu bò hươu nai lợn dê bỏ chạy từng đàn bụi bay mù mịt. Người già trẻ con trông thấy hổ hồn bay phách lạc. Chó đánh hơi mùi hổ , quấn quýt chân người, miệng câm như hến, không dám hé răng sủa. Con chuột làm hổ đắc chí lắm, một lời ơn Then hai lời ơn Then ban cho hạnh phúc là đây!

Một đêm trong rừng thấy người thợ săn gắn đèn soi trước trán. Chúa sơn lâm ngồi bắt đèn tức thì ăn viên đạn đồng đạn chì, tiếng súng chưa nghe thì đã ngã lăn kềnh trong vũng máu lênh láng. Con chuột làm hổ thấy thế phá đầu chạy kêu trời :

-Ôi chuột không muốn làm hổ nữa đâu ! Hổ sinh sản ít lắm không đủ làm đích bắn cho người săn hổ lấy thịt làm cỗ, lấy da làm vật thờ cúng, lấy xương nấu cao hổ cốt. Hổ tuyệt chủng đến nơi!

Then tức tốc giáng trần nói :

-Con chuột làm hổ kia! Ngươi muốn làm trâu cày ngựa cưỡi voi thồ nữa không ?

-Dạ ! Chúa rừng con chẳng muốn làm thì trâu ngựa voi mà chi. Con không biết cày, không muốn lột da làm trống. Con không thích cho ai cưỡi và bị lột da bọc thây ma chiến tranh. Con không mốn làm voi để mất ngà. Con chán mơ ước đổi đời rồi ạ!

-Dạ vâng ! Dạ vâng! Dạ vâng!…

Nói rồi con hổ biến trở lại thành con chuột vội vàng trèo lên ngọn cây cau.

Quảng Đại kể- ghi ở Trường TNDT Bảo Hà 1981.

Trời ban cho Hổ làm chúa Sơn Lâm. Khi tấn phong Trời giao cho Hổ ấn tín. Trời dặn:

-Nếu để mất ấn tín về tay con vật khác thì con sẽ mất chức vua rừng! Do đó con phải giữ gìn cho cẩn thận.

Nhớ lời Trời, Hổ cho đóng một cái hòm gỗ có khóa để cất ấn tín.

Trong rừng, chàng Mèo có tham vọng làm chúa sơn lâm tranh lấy quyền lực của Hổ. Ngày đêm Mèo nghĩ cách trộm cướp ấn tín trong hòm gỗ của Hổ. Nghĩ mãi Mèo mới biết chỉ có Chuột trời cho bộ răng đục khoét hòm gỗ giỏi thì lấy được ấn tín. Thế là Mèo bắt Chuột. Chuột kêu chít chít van lạy :

-Mèo hãy tha mạng cho tôi! Tôi sẽ đền ơn cho Mèo con chim nhỏ làm bữa!

-Meo hừ !Tao không cần con chim nhỏ. Cái tao cần mày đục cái hòm của Hổ lấy ra cho tao ấn tín để tao làm vua rừng. Dưới triều đại của Mèo loài chuột của mày được hoàn toàn giải phóng không bị Mèo vồ, Rắn đớp, Cú bắt. Chuột được tự do làm chủ vận mệnh.

Chuột nghe bùi tai quá chít chít reo lên:

-Đức vua Mèo đại nghĩa muôn năm!

Nhân lúc Hổ đi tuần rừng, Mèo dẫn Chuột vào hang Hổ chỉ cái hòm cho Chuột khoét lấy ấn tín. Chuột khoét cồn cột một lát thì có lỗ thủng cho Mèo thò tay vào khua khoắng lấy được ấn tín ra. Đúng là ấn tín bằng vàng sáng chóe. Được ấn tín rồi, Mèo làm lễ đăng quang lên ngôi vua rừng, tuyên bố triều đại Hổ đã hết, triều đại Mèo thành lập !

Voi, Trâu, Bò, Ngựa, Dê, Hươu, Hoẵng, Nai… không tin thì Mèo dâng ấn tín trời ban cho cả rừng xem. Lúc bấy giờ muôn vật trong rừng mới thừa nhận Mèo làm vua. Hổ mất ấn tín nên mất quyền lực đành ngậm bồ hòn làm ngọt, hận thù Mèo tuyên bố :

-Bắt được Mèo, ông ăn cả cứt!

Mèo làm vua nhưng vẫn sợ uy vũ của Hổ, từ ấy mỗi lần đi ngoài phải giấu phân trong đống tro đống cát. Hổ rình săn bắt Mèo nhiều lần hòng lấy lại ấn tín nhưng Mèo có võ trèo lên cây nên thoát nạn.

Mèo làm vua rồi nhưng Voi Trâu, Bò Ngựa, Dê Hươu, Hoẵng Nai… không cống nạp. Gà rừng thì giơ cựa chực đá Mèo. Chim nhỏ bay, Mèo chẳng vồ được. Trời cho Mèo cai trị Chuột ăn Chuột thì đã trả ơn cho Chuột tự do làm chủ vận mệnh, thế là há miệng mắc quai, thành ra Mèo lâm nạn nghèo đói gầy mòn dần. Quyền lực làm vua rừng của Mèo trở thành cái danh hão. Mèo để Chuột bạo ngược đục khoét gặm nhấm rừng vô tội vạ. Trần gian sinh ra loạn Chuột.

Nay Trời phê bình Mèo mai Trời cảnh cáo Mèo vô trách nhiệm không nghiêm trị Chuột. Thế là vua Mèo quay ra phản bội Chuột nuốt lời hứa trước đây, bắt Chuột cống nạp thịt để làm bữa sáng trưa chiều. Chuột một thời mở miệng là nói ” Nhờ ơn Mèo!” giờ thì tiếp tục ngàn xưa đêm đêm rúc vang: “Chít chít! Đả đảo Mèo! Tên đại lưu manh tiếm quyền Hổ!”.

Vua Mèo vốn là vua lười, ngủ 2/3 ngày, việc triều chính chẳng ngó ngàng, ngủ dậy chỉ kêu “meo nghèo!”. Chuột thù Mèo nhưng để sống còn không thể đối đầu, buộc phải dùng phép ngoại giao chuột đi đêm, một mặt cử phái đoàn thổi kèn rước chim cá cống Mèo, một mặt độc lập tự chủ, vinh qui bái tổ, cờ biển rợp trời, anh cưỡi ngựa trước, kiệu hồng hai họ rước nàng đi sau, chuột nào chuột ấy mặt mũi râu đuôi vênh vang trước thiên hạ rằng ta sành nghề ăn trộm đục khoét 20 % trữ lượng lương thực toàn cầu.

Lò Cẩm Tú kể – Ghi ở Mường Lò 1980.

Sự tích suối đá cuội và chim Lộc ít ở núi Phiêng Cại

Ngày xưa ở núi Phiêng Cại nay thuộc xã Phong Dụ huyện Văn Yên tỉnh Yên Bái có dòng suối trong xanh hút mắt cho nên còn gọi là suối Hút. Đáy suối lấp lánh cát vàng. Muôn loài cá bơi lội tung tăng. Loài cá nào cũng vui đùa với người tắm suối. Người ta bắt cá bằng tay ngắm nghía rồi lại thả ra. Con cá múa đuôi mơn trớn quấn quít bên thân người nhất là trẻ chăn trâu và những cô gái xinh đẹp da trắng ngần tắm suối lúc chiều hôm.

Trong bản Gốc Lụ có chàng người Thái mồ côi ở một mình tên là Lò Văn Ưng cởi trần lội suối bắt cá về ăn và bán lấy tiền mua gạo sinh sống. Chàng quá nghèo, quần áo không có mặc, chỉ đi bắt cá suối ban đêm để nhờ bóng tối làm vải che thân. Đã tuổi băm vẫn chưa có tiền lấy vợ, song chàng vẫn hy vọng sẽ gặp một nàng Tiên như trong cổ tích kết duyên với chàng mồ côi.

Vào những đêm trăng sáng, chàng đang bắt cá dưới suối Hút lai láng ánh vàng thì thấy một người con gái mặc áo cỏm, đội khăn piêu, dáng thon thả là là bay từ đỉnh núi Phiêng Cại xuống suối tắm ở bến Gốc Lụ. Cô gái cởi váy áo khăn piêu để trên bờ, thả thân ngọc mình ngà tuyệt mĩ xuống dòng nước mát. Chàng nép vào bờ cỏ rình xem cô gái tắm mà thầm kêu lên: ” Ôi ! Không phải tiên trên trời thì là con gái Sơn Thần Phiêng Cại xinh đẹp biết bao ! Nếu biết tôi là chàng mồ côi thì nàng có yêu tôi không? Còn tôi như nàng hút mất hồn rồi nàng ơi!” Cô gái tắm xong mặc váy áo đội khăn piêu là là bay lên đỉnh núi lung linh ánh trăng.

Sau nhiều đêm rình trộm xem cô gái tắm, nỗi khao khát của con tim đã thúc giục chàng quyết định tiếp cận với cô gái nói lời tỏ tình may ra thì thành duyên. Thế là chàng đến trước giờ nàng xuống tắm, vùi thân ở bờ cát bến Gốc Lụ. Trăng vừa lên được một cây sào. Mặt suối lăn tăn ánh vàng thì nàng bay là là xuống tắm như mọi lần. Nàng bơi lội chơi đùa với cá suối khỏa sóng lên bờ vỗ oàm oạp khiến cát trôi dần dần hở ra toàn thân chàng Lò Văn Ưng. Nàng trông thấy chàng trai lõa thể đang ngồi dậy nói:

Tức thì nàng hoảng hốt ù té chạy lên bờ, không kịp lấy váy áo, bay vút lên đỉnh núi Phiêng Cại. Quay lại nàng thấy chàng trai đuổi theo vẫn gọi với :

Nhưng nàng nghe không rõ, tưởng là chàng trai săn bắt nàng. Từ trên đỉnh núi Phiêng Cại nàng tung đá xuống suối Hút như mưa rơi ầm ầm tung tóe sóng lấp lánh ánh trăng vàng và lộp bộp rơi xung quanh chàng suýt nữa thì vỡ đầu khiến chàng phải nấp vào gốc lụ.

Dân các bản đôi bờ suối Hút dưới chân núi Phiêng Cại thấy từ tay cô gái cởi trần ném đá núi vù vù xuống mặt suối và ruộng bãi tưởng là ma quỷ tấn công hại người hại vật liền gõ trống khua chiêng và bắn súng kíp ùng oàng xua đuổi cho đến khi mặt trăng lặn , mặt trời lên , không thấy đá rơi nữa mới thôi.

Dân bản kéo nhau ra bờ suối Hút nhìn xuống dòng xanh hôm qua cát vàng giờ đây chất chồng đá cuội tròn như trái cây quả trứng làm cho nước suối đầy lên khác thường. Trên bãi bờ cũng rơi vô vàn đá cuội. Thấy chàng Lò Văn Ưng co ro trong mấy tàu lá dong che thân ở gốc lụ, già bản hỏi:

-Đêm qua bắt cá, cháu có biết chuyện gì sẩy ra không?

Chàng ấp úng vẻ ân hận thưa:

-Dạ… Cháu có biết… và do cháu đã gây ra ạ!…Cháu xin lỗi bà con đã lo sợ mất giấc ngủ ngon…

Chàng kể lại đầu đuôi câu chuyện tình yêu đơn phương của mình đã làm cho Thần nữ núi Phiêng Cại hiểu lầm đã tức giận ném đá núi cản bước người rượt theo nàng bắt nàng

Già bản sợ Thần nữ còn giận gây hại cho bản bèn sắm lễ vật lên núi Phiêng Cại cúng, nói rõ việc chàng mồ côi Lò Văn Ưng muốn bộc lộ tình yêu Nữ thần chứ không phải là săn bắt Nữ thần, xin được lượng thứ.

Hiểu ra vấn đề lương thiện không phải ác ý của chàng trai nghèo, Thần nữ núi Phiêng Cại hiện lên nói :

-Ta cảm ơn mối tình yêu ta của chàng trai mồ côi! Nhưng chàng là người dương ta là người âm, âm dương cách biệt, không thể kết duyên được. Ta sẽ phù hộ cho chàng có đời sống cao hơn để lấy được vợ trần gian.

Nói rồi Nữ thần biến mất.

Nữ thần núi Phiêng Cại xin cha là Sơn Thần Âu Lạc cho một gánh muối rắc xuống thung lũng đôi bờ suối Hút có những khe mạch chảy róc rách ngày đêm để dụ đàn chim Lộc ít bay về uống nước pha muối. Chàng mồ côi Lò Văn Ưng bỗng nhiên thôi nghề bắt cá suối, chuyển sang nghề nông, phát nương rẫy trồng lúa bắp, và bẫy bắt chim Lộc ít làm canh ăn và xách lồng ra chợ bán, trở nên giầu có, làm được nhà cửa, ăn mặc tử tế và lấy được người vợ vừa đẹp vừa đảm nhất bản Gốc Lụ.

Từ ấy suối Hút trở thành suối đá cuội và chim Lộc ít bay về rợp núi Phiêng Cại.

Lò Ngọc Sinh kể- Ghi ở Trường cấp III Văn Yên 1976

Sự tích cây hoa ban và cây vầu măng đắng

Ngày xưa ở bản Thái nọ nhà Tạo Lò Lạng sinh được cô gái tuyệt đẹp, da trắng như trứng gà bóc, mắt sáng như ngôi sao chiều trên núi, tóc mượt như suối, hát khắp hay, đánh đàn tính tẩu du dương trầm bổng, khiến chim đang bay phải dừng cánh đậu cành cây lắng nghe, cá bơi dưới suối cũng phải ngừng vây thưởng thức, đôi bàn tay búp măng dệt thổ cẩm thêu khăn phiêu và hàng bướm áo cỏm ai cũng mê nhìn. Tạo Lò Lạng cho rằng mình có phúc nên được Then ban cho công nương hoa hậu để kén một chàng rể là thủ lĩnh quân sự tài ba bảo vệ mường. Tạo Lò Lạng đặt tên cho con gái cưng của mình là Ban Nương.

Cách nhà Tạo Lò Lạng không xa, người làm cuông họ Lường sinh được một chàng trai khôi ngô tuấn tú , mắt sáng như đèn, cưỡi ngựa bắn cung giỏi không trai nào sánh kịp, cày trâu cày voi thực tài. Khi còn nhỏ rất bụ bẫm kháu khỉnh, sợ con ma bắt, cha mẹ đặt cho cậu bé cái tên là Khôm ( Đắng). Ma ưa của ngọt chê đắng mà bỏ qua.

Lớn lên Ban Nương và chàng Khôm gặp nhau trên sân hoa hạn khuống trong ngày hội lồng tồng, mê nhau về sắc quí nhau về tài, hai người mượn câu hát khắp báo sao tỏ tình, tâm đồng ý hợp hát tối ngày không rời nhau. Từ hôm ấy hai người yêu nhau say đắm, ngày nào cũng phi ngựa lên núi Pú Chạng tâm tình thề non nguyền nước, trăm năm sống chết có nhau.

Tạo Lò Lạng biết con gái cưng không yêu một vị tướng soái quân đội của mình mà phải lòng một tên mọi con nhà cuông nghèo hèn cùng đinh xã hội thì còn môn đăng hộ đối cái con khỉ gì nữa. Tạo tức phát điên, sai quân đội mường Lò bắt hai người trên núi Pú Chạng về nhà để hành tội dám ngang cành bứa luyến ái tự do. Tạo Lò Lạng định nhốt con gái vào buồng cấm cung dạy cho bài học tình yêu có đẳng cấp đăng đối trong xã hội Thái đúng như câu trai anh hùng gái thuyền quyên mới xứng sánh đôi chim phượng và rồng vàng. Còn thằng mọi con cuông mạt hạng đũa mốc dám chòi mâm son đánh cho một trăm gậy chết thì quăng sông Thia cho hết đời cái giống phong tình lãng mạn hão huyền xưa nay.

Con chim co ke biết được âm mưu của Tạo Lò Lạng phá duyên uyên ương của đôi trai gái đã bay lên trước toán lính báo cho Ban Nương và chàng Khôm trên núi Pú Chạng biết mà chạy trốn đi. Thế là hai người phi ngựa lên Mù Căng Chải, vượt Khau Phạ, qua Mường Chiến, sang sông Đà, đèo Pha Đin, đến Mường Then. Toán lính Mường Lò vẫn đuổi gấp phía sau. Đến bờ vực, hai người xuống ngựa, để không bị bắt, đã xiết chặt tay nhau nhảy xuống lũng đất sâu mà quên sinh để về Then sống bên nhau vĩnh hằng.

Đàn mối đắp cho đôi trai tài gái sắc tự do yêu đương một nấm mồ. Chẳng bao lâu từ nấm mồ chung ấy mọc lên hai cây. Một cây thân đốt họ trúc lá xanh mọc dưới gốc cây măng có vị đắng, người Thái gọi là Nó Khôm (Cây Vầu Đắng); một cây cành lá xum xuê có lá xanh hai nửa hình tim ghép lại, cuối đông cây trút lá vàng rồi nở hoa trắng muốt chào xuân sang, người Thái gọi là cây Bióoc Ban (Hoa Ban).

Từ ấy hai cây Nó Khôm và Bióoc Ban mọc khắp núi rừng Tây Bắc trở thành biểu tượng của tình yêu lứa đôi tự do chung thủy. Người ta lấy măng đắng ngâm với hoa ban làm món ăn đặc sản của Tây Bắc có vị chua ngọt dễ chịu. Ai ăn cũng trầm trồ nói :

-Đó là hiển linh của mối tình thủy chung chàng Khôm với nàng Ban ngàn xưa. Ý vị của nó nhắc nhở người Thái không bao giờ quên và lặp lại bi kịch tình yêu như họ. Trai gái trong ngày cưới ăn món ấy để duyên tình chua ngọt có nhau trọn vẹn một đời người.

Cầm Vân kể – Ghi ở Trường TNDT Lũng Mu 1980.

Cây hoa ban cho sự sống và tình yêu

Nhưng cậu lại yêu cô gái con một gia đình nghèo rớt mùng tơi ở bản Hồng Cúm. Cô gái này đẹp người đẹp nết nhất bản. Mặt nàng trăng đêm mười sáu, da trắng nõn nà cổ cao như bông huệ. Nàng giỏi cấy lúa ruộng , nuôi lợn gà, dệt thổ cẩm. Nàng cũng yêu cậu nhưng nói :

-Cha mẹ anh không ưng cho anh lấy em đâu bởi vì nhà anh có quyền chức giầu sang, còn nhà em nông dân nghèo khó bậc cùng đinh xã hội.

-Đúng là cha mẹ anh có tư tưởng đẳng cấp môn đăng hộ đối trong hôn nhân gia đình và ép anh lấy một cô gái mà anh không yêu con nhà tạo Mường Tè. Anh quyết không theo quan điểm lỗi thời lạc hậu đó của cha mẹ anh. Là trang nam nhi Thái của thời đại mới việc trăm năm của mình phải biết tự quyết lấy không thể để cha mẹ áp đặt mà bất hạnh một đời. Anh đã lựa chọn em làm vợ chứ đâu chọn cái quyền chức cái kinh tế giầu có làm vợ. Quyền chức và giầu của là do đức độ tài năng của con người có uy tín với dân với nước mà có chứ đâu phải do ái tình mang lại. Với anh tình yêu là ở hai con tim đập chung một nhịp sống trên cõi trần ban cho nhau hạnh phúc ái ân sinh con khôn, bằng trí tuệ và sức lao động vợ chồng làm nên tất cả nhu cầu sinh hoạt của gia đình. Anh chỉ muốn có cuộc sống đời thường gia đình hạnh phúc hơn là có cái chức tạo mường mà vợ chồng thì ông chẳng bà chuộc chẳng phải người. Nếu cha mẹ anh ngăn cấm cuộc tình của chúng ta thì anh cùng em bỏ trốn tìm nơi đất tốt khai phá lập mường tạo bản lo chi. Khi nào song thân hết giận thì chúng ta mang con cháu về trình diện có sao đâu!

Thế là hai người yêu nhau tự do tự lập.

Nghe tin con trai đã lấy vợ ở bản Hồng Cúm, Tạo Mường Then quát tháo ầm ĩ:

-Con nữ yêu quái nào mà dám lấy con trai nhà tạo làm chồng? Con trai ta có ăn học mà mê muội trước nữ yêu quái ư ? Lính đâu bắt ngay chúng nó về nhà để ta trị tội.

Tiếng lính dạ ran. Tiếng ngựa hí, tiếng vó ngựa lộc cộc, rầm rập lên đường. Bụi cát vung mù mịt. Người bạn của chàng trai biết tin đã phóng ngựa đi trước báo cho hai người chạy trốn. Họ dắt nhau chạy vào rừng sâu, không mang theo được thứ gì. Tới ngã năm đường họ rẽ vào một lối cụt rồi lội suối vượt rừng đi mãi đi mãi. Họ đi đến đâu cỏ cây mọc chi chít rất nhanh dào lối đến đấy. Lính Tạo Mường Then đi vào đường cụt rồi lại quay ra chia thành bốn toán đi bốn ngả truy lùng.

Hai người yêu nhau đi hết ngày này đến ngày khác, đói, mệt, cùng ngã gục dưới một gốc cây cành lá xum xuê rồi tắt thở. Cây có hàng nghìn mắt lá hình hai nửa trái tim ghép lại tiếc thương đôi trẻ yêu nhau chết đói mà sầu úa vàng. Một làn gió qua rụng sạch trơ cành khẳng khiu. Những cành to cành nhỏ lao xao giục nhau:

-Nhanh lên các bạn! Hãy trổ thật nhiều hoa trắng muốt thơm để cứu hai người!

Thế là cây bừng nở ngàn hoa chín tới rụng xuống miệng hai người. Họ máy môi ăn thấy bùi thơm ngọt mát dần dần tỉnh dậy. Hai người vui mừng khôn xiết ôm lấy gốc cây thổn thức nói :

-Ôi cây thơm thảo nhân ái vô cùng! Cảm ơn cây đã ban cho chúng tôi sự sống. Chưa biết tên cây là gì? Hãy cho hai vợ chồng tôi được phép gọi là cây hoa ban cho con người sự sống và tình yêu được không ạ!

Cây hoa trắng muốt thơm ngọt mát rì rào nói:

-Được! Nên gọi ngắn gọn là cây hoa ban !

Hai người ăn hoa ban sự sống và tình yêu khỏe ra. Khi ấy xuân về măng mọc đầy rừng. Họ hái măng tìm đường đến bản mường bán lấy tiền sắm rìu dựa, mang về phát cây, làm nhà ở, chồng làm nương làm rẫy, vợ xe sợi dệt thổ cẩm. Chẳng bao lâu họ có một gia đình sung túc ấm cúng hạnh phúc, sinh được hai con một gái một trai mập như hai cây măng rừng. Đêm đêm họ đánh đàn tính tẩu hát khắp báo sao khiến cả rừng suối lặng yên lắng nghe những lời ca trữ tình mà họ sáng tác. Chồng cất giọng trầm ấm : “Đôi ta yêu nhau không tính mùa ban nở / Không thấy ngày ban tàn / Mãi mãi như mùa ban đầu , ta yêu nhau.” Vợ cất giọng cao trong trẻo: ” Hoa ban nở khi xuân về. Tình ta đẹp như hoa ban. Hỡi người ta yêu…” Hai đứa trẻ cũng bập bẹ hát theo: ” Hoa… ban…tình…yêu…”

Hai vợ chồng họ tự do yêu đương và hôn nhân sống trọn tình trọn nghĩa trăm năm. Khi về trời người chồng được đầu thai kiếp khác là cánh chim én. Người vợ được đầu thai là cây hoa ban trắng mọc khắp rừng Tây Bắc. Mỗi đầu năm mới đàn én chiu chít bay về thì rừng ban đua nở hoa trắng đón mừng nhau tưng bừng xuân.

Cầm Vân kể- Ghi ở Trường TNDT Lũng Mu 1980.

Sự tích cây hoa ban và Lễ hội Hoa Ban

Bản kia có cô gái tên là Ban. Nàng xinh đẹp nhất mường. Da trắng như nõn chuối rừng. Tóc dài mượt như suối. Mỗi bước nàng đi yểu điệu khiến muôn vật nín thở ngắm nhìn theo. Không biết bao chàng trai mường trên bản dưới rậm rịch đến chân quản chân thang chọc sàn để tỏ tình. Nhưng chưa có một chàng trai nào lọt vào mắt đen lay láy của nàng.

Trong bản có chàng Khun mồ côi cả cha lẫn mẹ, không nơi nương tựa, sống trong một túp lều cỏ chè vè. Ngày ngày chàng vào rừng đốn củi bán lấy tiền mua gạo nuôi thân. Chàng chăm chỉ như con dúi con don cặm cụi làm việc suốt ngày. Chàng giỏi săn bắn khiến đàn thú bỏ nương rẫy của bản chạy vào rừng sâu. Đôi tay chàng còn khéo đan lát, làm mộc, đóng khung dệt vải, làm nhà sàn mái rùa có khau cút. Bà con bản có công to việc lớn chàng đều đến làm giúp. Già trẻ ai nấy đều yêu quý chàng.

Chàng thầm yêu trộm nhớ nàng Ban đã lâu mà chưa dám ngỏ tình. Nàng Ban vẫn thầm mong bà mờ đến hỏi nàng cho chàng. Con tim thúc giục đến chọc sàn, chàng đã được nàng Ban tiếp đón tâm tình thề non hẹn núi đã mấy tuần trăng. Nhưng chàng quá nghèo chưa có đủ một đồng bạc trắng để hỏi vợ.

Rồi một hôm cha mẹ nàng Ban gả nàng cho quan tạo mường giầu sang phú quí. Nàng chạy đến nhà chàng Khun thì chàng đi săn trong rừng vắng. Nàng quay về đã thấy nhà tạo mang lễ vật cưới lợn dê rượu gạo đến nhà. Nàng vội vàng vắt chiếc khăn piêu làm ám hiệu trên dây phơi rồi trốn vào rừng sâu. Nàng đi , đi mãi, vừa đi vừa khóc gọi chàng Khun, nhưng không một tiếng đáp lời. Cuối cùng nàng kiệt sức nằm xuống dưới chân một quả đồi. Đàn mối đắp cho nàng một nấm mồ. Chẳng bao lâu từ nấm mồ nàng Ban mọc lên một cây hoa trắng muốt đẹp đến nao lòng. Lá xanh hình hai nửa trái tim ghép lại. Nhân dân trong vùng cho rằng cây hoa ấy là linh hồn nàng Ban hóa thành và gọi tên là cây Hoa Ban.

Lại nói chàng Khun mãi chiều tối mới đi săn về. Nhìn lên dây phơi nhà nàng Ban thấy chiếc khăn piêu báo hiệu sự chẳng lành. Theo dấu chân nàng Ban, chàng vào rừng sâu, hú gọi tìm nàng. Nhưng chỉ có tiếng hú của chàng vọng lại. Chàng đi khắp vùng Tây Bắc chẳng thấy nàng Ban, quay trở về Mường Lò dừng chân ở Thẩm Lé thì bỗng nghe tiếng nàng Ban than thở theo gió luồn hang đưa tới. Chàng quẩn quanh đi lại lắng nghe tiếng nàng cho đến lúc không còn sức gục xuống tắt thở. Chẳng bao lâu mỗi vết chân chàng đi tìm nàng Ban trong vùng Tây Bắc và quanh hang Thẩm Lé mọc lên một cây Hoa Ban trắng muốt. Ngày nay rừng ban ở Thẩm Lé vẫn xanh tươi mỗi xuân về hoa nở trắng một vùng.

Từ ấy người Thái Tây Bắc tôn vinh hoa ban là hiện thân của tình yêu chung thủy. Ngày xuân hàng năm Mường Lò mở hội Hoa Ban ở Thẩm Lé để tưởng nhớ mối tình của nàng Ban và chàng Khun sống còn mãi mãi trong lòng người với rừng Ban trắng nơi đây.

Cầm Vân kể – Ghi ở Trường TNDT Lũng Mu 1980.

Ngày ấy ở bản nọ có ông Bạc Cầm Ành biết làm ăn nên rất giầu có. Nhà cao cửa rộng, vợ đẹp con khôn, ruộng cả ao sâu, trâu bò ngựa lợn dê đàn đàn lũ lũ. Của chìm của nổi vào bậc nhất mường đến nhà tạo cũng không bằng.

Trong khi đó người bạn đồng niên với Bạc Cầm Ành là Lò Văn Pàn nghèo rớt mùng tơi do của cải lần lượt chui qua cái dọc tẩu theo khói bay hết. Thói đời ghen ăn ghét ở, chân mình đã nhúng chàm thì cũng lôi người khác dẫm vào, Lò Văn Pàn muốn bạn mình cũng vào hội hút khói xanh thơm.

Một hôm Lò Văn Pàn cầm bàn đèn dọc tẩu đến nhà Bạc Cầm Ành mời hút. Bạc Cầm Ành nói :

-Ồ ! Tí thuốc nhựa anh túc chỉ bé bằng con rận thôi mà nó ăn hết giang sơn điền sản đấy. Nó nuốt chửng trâu bò ngựa lợn dê như chơi! Ông đã hút nó thì cứ phải hút thôi! Còn ta đã không hút là không bao giờ hút!

-Ông nên hút thử một điếu để biết mùi đời thế nào là khoan khoái đê mê lạc thú của kiếp người. Không nghiện như tôi đâu sợ gì ! Người ta còn nuốt thuốc phiện để khỏi đau bụng đi ngoài đấy, chẳng sao đâu. Một điếu thôi, gọi là như miếng trầu, nhúm thuốc lào, chén nước chà mời nhau đầu câu chuyện ấy mà!

Bạc Cầm Ành nể bạn, tặc lưỡi một cái, liền cầm dọc tẩu rít một hơi nhả khói xanh thơm ngon đáo để, cảm giác lâng lâng ngây ngất như phút tột đỉnh của cuộc truy hoan nam nữ buổi xuân thì.

Thấy bạn đờ ra hưởng khoái lạc, Lò Văn Pàn thầm reo lên :

-Cá sỉnh đã cắn câu rồi! Then ơi!

Đúng qui luật hút một rồi muốn hút hai, hút hai rồi muốn hút ba, như chiều nay no xôi nếp, sáng mai lại thèm, Bạc Cầm Ành trở thành một con nghiện lúc nào không biết. Thoạt đầu trâu bò ngựa lợn dê chui qua cái dọc tẩu đi trước, tiếp theo là ruộng mật điền , ao sâu cá mè, nhà cửa và cuối cùng là vợ con từ bỏ Bạc Cầm Ành. Từ bạn đồng niên ông trở thành bạn nghiện chí cốt của Lò Văn Pàn.

Có người trả nợ cho ông một khoản tiền vay. Ông bỏ bản vào rừng làm cái lều cỏ và mua thuốc phiện xoa dịu cơn nghiện. Đêm đêm ông hút phả khói thơm bay ra rừng hoang. Một con hổ trong rừng hít phải thành nghiện, tối nào cũng tìm về ngồi sau cái lều cỏ ngửi khói thuốc tỏa lan theo gió. Ngồi trong cửa sổ ông trông thấy con hổ hiền lành coi là bạn nghiện với mình. Bữa nào hết thuốc, không thấy hổ đến ông buồn lắm, nhất là sau khi người bạn nghiện chí cốt Lò Văn Pàn thiếu thuốc lên cơn nghiện tử vong. Hôm ấy ông nói với con hổ :

-Bạn hổ nghiện của tôi ơi! Mai mình hết tiền hết thuốc rồi! Bạn có thể giúp mình có tiền để có thuốc hút không?

Con Hổ nhìn đôi mắt sâu hoắm lờ đờ của ông một hồi lâu rồi gật đầu.

Sáng hôm sau ngủ dậy, ông thấy một con lợn rừng chừng hai người khiêng bị cắn cổ chết nằm ở chỗ hổ quen ngồi. Ông liền nấu nước cạo lông rồi thui con lợn xả thịt mang xuống bản bán lấy tiền mua thuốc hút, còn để lại vài cân nướng chả, đêm ấy mời hổ đánh chén và ngửi khói nhựa anh túc. Vậy là sau đó hôm thì hổ mang đến con hoãng, hôm thì con hươu, con nai hay con sơn dương. Đến một hôm con hổ mang đến con lợn nhà chừng một tạ thì ông phát lo, ông nghĩ: ” Phải bảo ông bạn hổ nghiện thôi! Không được bắt lợn trâu bò của bản. Nếu ông bắt thì sẽ bị người bản gài bẫy hoặc bắn chết. Ông hổ mà chết thì mình không thịt rừng bán, không tiền, không thuốc hút cũng chết theo!”

Nhưng đêm ấy đã quá giờ hút rồi mà ông hổ vẫn không thấy về sau lều. Bạc Cầm Ành chu lên khóc :

-Bạn hổ nghiện của tôi ơi! Mình chưa kịp bảo bạn thì bạn đã sa bẫy hay bị trúng đạn của người bản mất rồi! Hu hu hu…

Cho đến đêm sau , đêm sau nữa không thấy hổ về, Bạc Cầm Ành hoàn toàn tuyệt vọng, cũng là lúc ông hết thuốc, lên cơn nghiện nặng, ông qua đời. Cái miệng ông méo xệch méo xạc, xùi bọt mép, tay nắm chặt cái dọc tẩu bên bàn đèn cạn dầu bấc tắt…

Cầm Ngọc Tú kể – Ghi ở Mường Lò 1980

Ngày xưa ở bản kia có hai anh em mồ côi ở với nhau chung một gia tài của cha mẹ để lại không thiếu thứ gì. Nào là nhà cao cửa rộng. Nào là kho thóc kho ngô đầy ắp. Nào là chuồng trâu chuồng bò chuồng ngựa hàng chục con. Ruộng nương hạng mật điền hàng chục mẫu.

Lúc thiếu thời hai anh em còn thương nhau. Đến khi người anh lấy vợ thì sinh thói tham lam chiếm toàn bộ gia tài bằng cách làm di chúc giả của cha mẹ ban cho con trưởng để lo việc thờ cúng hương hỏa.

Người em tay trắng ra ở riêng không được anh trai cho thứ gì . Người em vào rừng phát cây đốt nương trồng lúa bắp, làm cái lều ở tạm.

Một hôm qua suối lũ thấy một cây chuối nhỏ trôi, chàng mang về trồng cạnh lều. Hàng ngày chàng chăm sóc nương rẫy không quên bón phân, đắp đất màu mỡ vào gốc và tưới nước cho cây chuối. Một năm qua cây chuối tốt tươi mỗi lá như cánh phản che nắng che mưa rồi trổ bắp đỏ tươi, sinh ra một buồng lớn dài bằng cái đòn gánh, mười lăm nải lớp lớp những quả chuối mập mạp. Đến một hôm buồng chuối lừng hương thơm chín vàng. Chàng định bẻ quả ăn thì không bẻ được. Chuối chín không rụng. Chàng lấy dao cắt không xong , xem kỹ thì thấy buồng chuối bằng vàng, mỗi quả là một thỏi vàng. Có vàng vàng chẳng hay phô. Chàng ngả cây chuối, giấu buồng chuối vàng vào trong đống củi, chặt từng quả đem bán lấy tiền, thuê người phát hoang cánh rừng, mở rộng ruộng nương, san gạt đồi gò làm nền nhà, vườn cây, ao cá, mua gỗ tứ thiết , thuê thợ làm nhà sàn mười gian bốn mái rùa hai khau cút, hai cầu thang, lát sàn, cửa chính cửa sổ trạm trổ rồng phượng lộng lẫy đẹp nhất mường và lấy một cô gái áo cỏm khăn piêu xinh đẹp tài hoa, dệt thổ cẩm giỏi không ai bằng làm vợ hạnh phúc trăm năm. Buồng chuối vàng làm vốn đầu tư trồng trọt chăn nuôi trở thành tỷ phú chín châu mười mường. Hàng chục nhà kho đầy lúa bắp. Nào là lúa nếp hương nuôi ngưòi. Nào là kho gạo lợn . Nào là kho thóc gà, trâu, bò, ngựa. Đại gia súc nuôi hàng ngàn con. Trâu bò khua mõ, nhạc chuông ngựa vang rộn cả núi rừng. Nhà khung cửi thoi đưa nhịp nhàng, kho thổ cẩm đầy lên tận nóc. Gia nông gia binh người ăn kẻ làm tấp nập. Những đêm trăng sáng, tiếng đàn tính tẩu, tiếng sáo pí pặp, tiếng khắp báo sao vui như hội lồng tồng. Vợ chồng chàng làm ông bầu mở trường học dạy chữ Thái, mở trạm xá chữa bệnh miễn phí cho dân.

Năm ấy trời hết đại hạn đến đại lụt, thiên hạ mất mùa, nạn đói hoành hành. Riêng ruộng nương của chàng nhờ hệ thống tiêu tưới nên được mùa. Vợ chồng chàng bán gạo cứu đói cho kẻ giầu, phát chẩn cho người nghèo.

Giặc đói Cờ Vàng phương Bắc tràn sang, để thực túc binh cường, vợ chồng chàng cấp gạo trâu bò ngựa cho quân đội triều đình và gia binh đánh giặc tan.

Vợ chồng người anh hưởng thụ gia tài cha mẹ để lại dần dần cũng hết, nay mất mùa , đói khổ, nghe tin có nhà giầu phát chẩn bần, liền mang dậu tìm đến xin. Chàng nhận ra anh và chị dâu gầy đen như quỉ đói. Anh chị cũng nhận ra chủ nhà phát chẩn chính là em mình, lúc đầu hơi ngượng ngùng sau vồn vã cầu cạnh. Vợ chồng người em rước vào nhà sàn mười gian mở tiệc chiêu đãi rượu thịt lu bù, đến nhà tạo mường cũng không bằng. Người em cho cả gạo lẫn ngựa thồ và biếu một nải chuối bằng vàng mang về lấy vốn làm ăn. Tuy nhiên vợ chồng người anh chưa vui lắm, cứ nằn nì hỏi em có bí quyết gì mà trở nên giầu sang phú quí. Người em thật thà kể lại đầu đuôi câu chuyện trồng cây chuối cho buồng chuối vàng nên mới được như vậy.

Vợ chồng người anh nhận quà của người em ra về đủ sung sướng một đời nhưng lại muốn giầu hơn nữa, liền dắt nhau vào rừng phát nương làm lều và ra suối lũ xem có cây chuối trôi để vớt về trồng. Lũ ống lũ quét tràn về. Một cây chuối nhỏ trôi tới, hai vợ chòng ùa ra vớt, thì dòng nước xiết cuốn đi, suýt mất mạng, may mà ôm được bụi chuối trôi dạt vào bờ. Song cũng lấy được cây chuối nhỏ về trồng ở lều. Ngày giả vờ ra lều ở trông cây, đêm lại về nhà ấm cúng hú hý với nhau. Đến khi cây chuối trổ buồng chín vàng, hai vợ chồng hý hửng ngả cây chặt buồng thì chẳng thấy chuối bằng vàng mà là buồng chuối rừng quả nào cũng đầy hạt không ăn được, cho khỉ chuột cũng không màng. Hai vợ chồng tức giận chửi Then không phù hộ, tức thì giữa trời quang mây tạnh, một tiếng sét long trời, Thiên Lôi bổ một nhát búa vào đầu hai vợ chồng thế là chết cháy đen nửa người.

Cầm Ngọc Tú kể – Ghi ở Mường Lò 1980.

Sự tích con cò rình bắt cá bên dòng nước chảy

Bản kia bên bờ sông Đà nước chảy êm đềm. Nhà tạo bản có người con trai tên là Lường Khằm, chỉ biết ăn chơi, không biết làm gì. Hai vợ chồng hưởng thụ gia tài của cha mẹ để lại được vài năm thì hết. Vợ còng lưng làm thuê cuốc mướn nuôi chồng.

Nhiều lúc túng bấn vợ trì triết nói:

-Người đàn bà xưa nay lấy chồng nhờ chồng. Yếu trâu hơn khỏe bò. Đàn ông bao giờ cũng là nòng cốt kinh tế gia đình. Nay chàng không làm gì, sáng chiều ra bến sông hóng mát, đói bụng đã có vợ kiếm cho ăn. Thế thì bao giờ có tiền làm nhà, tạu ruộng nương, trâu bò ngựa, nuôi con học hành! Tôi mà ốm đau thì chết đói cả nhà!

Lường Khằm lấy chịch ông chồng gia trưởng nói :

-Thôi đi! Đây chẳng nòng cốt kinh tế chứ còn ai nữa! Sáng chiều hóng mát bờ sông không phải chơi đâu. Tôi chờ cơ may làm ăn lớn đó. Đợi đấy sẽ biết tay tôi!

Nói rồi chàng lại ra bờ sông chắp tay sau mông trông trời nước ban mai một sắc trong veo. Trưa về ăn cơm nằm ngủ. Chiều lại ra ngắm sông nước hoàng hôn lững lờ trôi ánh vàng. Rồi tắm mát về ăn bữa tối và đi ngủ. Một trăm ngày thì cả một trăm linh một như vậy. Vợ cằn nhằn mỏi miệng cũng chẳng lay chuyển được chồng. Cuối cùng đành buông xuôi. Cảnh nghèo lúc đầu còn ăn cơm, sau ăn cháo, sau nữa ăn củ mài củ nâu.

Bỗng một chiều có cái bè gỗ của khách sơn tràng neo tại bến. Lương Khằm xuống bè hỏi:

-Các ông có những thứ gỗ gì ?

-Đinh lim xến táu tứ thiết đấy! Mua gỗ cả bè chúng tôi bán hạ cho một hai giá!

Lương Khằm dẫn khách sơn tràng về nhà bảo vợ vay gạo rượu gà làm cỗ đãi bạn làm ăn. Cỗ bưng lên sàn, rượu vào lời ra chủ khách hoan hỷ. Lường Khằm nói :

-Ai lại uống nước cả cặn bao giờ? Hạ cho ba giá đi!

Khách chạm cốc chủ đánh cạch một cái:

Rượu say rồi khách ngủ li bì. Lương Khằm đến mấy chủ làm đồ gỗ trong mường giao bán ăn giá. Các chủ làm mộc trao tiền cho Lương Khằm trả cho khách Sơn tràng. Sáng ra các chủ làm mộc cho trâu ra bến kéo gỗ về xưởng. Tính ra Lường Khằm được hưởng tiền chỉ chỏ 30 % của khách sơn tràng và 10 % của chủ nghề mộc. Vậy là lấy công làm vốn chàng buôn bán nước bọt được hưởng 40 % tổng giá trị. Trúng quả này Lường Khằm đủ gỗ làm nhà sàn mười gian. Vợ chàng lúc bấy giờ mới biết tính kiên trì chơi chờ rình cơ hội may mắn của chồng và bắt đầu vui vẻ cho chồng sáng chiều ngày lại ngày hóng mát bên bờ sông.

Ba năm qua đến một sáng có chiếc thuyền thoi cập bến, Lường Khằm bước xuống chơi hỏi :

-Ông chủ thuyền ơi! Có hàng gì thế?

Chủ thuyền chui ra khỏi mui nói :

-Đây có mua bông kéo sợi dệt vải không?

-Có! Mời ông lên nhà chơi nói chuyện.

Lường Khằm dẫn chủ thuyền ngồi chiếu hoa giữa sàn , rồi sai vợ làm cỗ bưng ra . Rượu giót đầy hai chén. Chủ và khách cùng chạm kêu đánh cạch. Khi ngà ngà say Lường Khằm hỏi:

-Bông bán bao nhiêu một tạ? Ông giảm cho tôi mấy giá?

-Trăm tiền một tạ! Giảm cho ông hai giá1

-Giảm ba giá! Mỗi giá mười tiền đi! Tôi mua hết!

Sau tiếng chạm chén cạch cạch ròn rã, khách bán bông tặc lưỡi:

-Ừ thì giảm ba giá 30 tiền một tạ.

Cơm rượu xong ông khách ngủ say. Lường Khăm đi gặp các bà các cô kéo sợi dệt vải trong bản bán với giá 110 tiền một tạ. Ngay chiều hôm ấy đầy thuyền thoi bông bán hết sạch. Lương Khằm buôn bán nước bọt đầu môi được hưởng 40 tiền một tạ. Tất cả thuyền 2 tấn bông chàng thu 800 tiền. Chàng tạu được năm mẫu ruộng mật điền để giành cho con cháu. Vợ chàng cấy không xuể, đem ba mẫu phát canh thu tô. Gia đình Lường Khằm trở thành khá giả nhất nhì bản.

Con trai đến tuổi đi học cần tiền sách đèn và tiền nuôi thầy. Chàng định bán đi vài tấn thóc thì một chiều hôm cái bè nứa chở 10 trâu và một trăm tải bông lau khô neo vào bến. Chàng hý hửng mời chủ bè về nhà, sai vợ bưng ra mâm cỗ đặt giữa sàn. Chủ và khách đánh chén say sưa túy lúy. Lường Khằm hỏi:

-Tất cả bè ông bán bao nhiêu ?

– Mười nghìn tiền! Không khuyến mại một xu !

– Thế thì bớt cho ông 1000 tiền!

Chủ bè say rượu ngủ li bì. Lường Khằm đi gặp các nông gia cần tạu trâu bán 1000 tiền một con, gặp các bà các cô làm đệm hoa lau bán 50 tiền một tải, gặp các nhà trồng rau làm dàn và đan dào 5 tiền một bó nứa 20 cây. Chỉ vài giờ người bản mua sạch bè nứa, 10 trâu và 100 tải hoa lau. Tính ra Lường Khằm chỉ chỏ phất lớn được 1000 tiền trâu + 5000 tiền hoa lau + 1000 tiền nứa, tổng cộn 7000 tiền lo cho con trai ăn học chẳng kém gì quan tạo mường. Tiền còn dư mua trâu bò ngựa thuê người chăn dắt.

Cứ thế cho đến lúc hết đời Lường Khằm chắp tay sau mông, hóng mát gió sông Đà, đợi cơ may làm ăn buôn bán nước bọt mà trở thành phú gia làm cho vợ nở nang cả mày mặt hãnh diện với cả bản có chồng là nòng cốt kinh tế của gia đình.

Các cụ già bản kể thêm rằng khi hai năm mươi Lương Khằm về mường Trời thì một hôm từ nấm mồ nứt toác ra bay lên một con cò trắng bạch như vôi đáp xuống một dòng nước chảy trên đồng đứng thu lu rụt cổ rình, thi thoảng một con cá bơi qua thì lập tức lao mỏ bắt, đánh chén ngon lành, rồi lại đứng như cũ đợi bắt con cá tiếp theo. Đến trưa thì đã no, con cò bay lên bụi tre ngủ. Đến chiều mát lại bay xuống bờ dòng nước chảy cũ, đợi rình vung mỏ mổ con cá bơi qua. Chiều tối đã no riều, cò lại bay về bụi tre ngủ. Sáng sớm từ bụi tre cò lại bay xuống dòng nước chảy

rình bắt cá tiếp chó đến mùa nước cạn thì bay đi nơi khác kiếm ăn. Hè thu năm sau lại bay về. Người ta bảo con cò ấy chính là Lương Khằm đầu thai.

Lò Ngọc Sinh kể- Ghi ở Trường cấp III Văn Yên 1976.

Ngày ấy, Thần Hồ Đầm du ngoạn xem chim nước kiếm ăn thấy choi choi ăn tôm riu, vịt trời mò ốc xơi, cò mổ con cá nhỏ, bói cá bổ nhào xuống nước bắt con cá con, trong khi đó con bồ nông thì xơi những con cá to tướng. Hơn nữa chúng lại đánh nhau tranh giành mồi gây ra cảnh cốc mò cò xơi. Thế là ngài tuyên bố xóa bỏ bất công thực hiện bình đẳng trong xã hội chim nước. Thần Hồ Đầm nói:

-Hồ đầm là của chim nước, ai có công săn bắt tôm cá thì được hưởng. Các loài chim không được tranh giành áp bức bóc lột nhau. Nếu chim nào áp bức bóc lột chim nào thì sẽ bị pháp luật của Thần Hồ Đầm trừng trị thích đáng để bảo vệ quyền lợi bình đẳng của chim nước, giải phóng chim nhỏ bị áp bức.

Hàng ngày chim Chả thấy Bồ Nông thân to như con ngỗng lớn lại có cái mỏ to ơi là to, bơi dong chơi trên hồ đầm, mỏi chân thì nằm trên mặt nước ngủ say sưa, vậy mà thình lình nó lại bắt được con cá lớn bằng bắp tay người, đánh chén ngon lành. Ăn no rồi, nó còn bắt cá nhốt đầy bị dưỡi gậm mỏ, bay về tổ nuôi chim con hoặc làm lương thực ăn dần trên đường bay dài ngày.

Chim Chả không biết thân biết phận mình trời cho thân nhỏ, mỏ nhỏ, cân đối, bắt cá nhỏ sinh sống, mà sinh lòng ghen ăn ghét ở, ganh tị với Bồ Nông thân to mỏ to bắt cá to. Nhân có chính sách xóa bất công, thực hiện bình đẳng lợi quyền của loài chim mà Thần Hồ Đầm đã công bố, chim Chả muốn cướp cái mỏ của Bồ Nông bèn phát đơn kể khổ của mình, kể tội ác của Bồ Nông đã cậy sức mạnh áp bức cướp cái mỏ to làm ăn lớn của mình từ đời ông cha trước đây, gửi lên Thần Hồ Đầm. Xem xong đơn tố khổ của chim Chả, Thần Hồ Đầm coi ông Trời bằng vung, liền cho bắt Bồ Nông tịch thu cái mỏ lớn lắp đền cho chim Chả. Còn cái mỏ chim Chả thì trả lại cho Bồ Nông. Bồ Nông không nhận vứt đi và cãi :

-Then nặn ra Bồ Nông to lớn lắp cho cái mỏ to lớn để bắt cá lớn. Then nặn ra chim Chả nhỏ bé lắp cho cái mỏ nhỏ bé để bắt cá bé. Bồ Nông không cướp cái mỏ to của chim chả bao giờ. Điều này rất phi lý, chim Chả đã vu oan cho Bồ Nông đề nghị Thần Hồ Đầm phải trừng trị chim Chả.

Thế là đám đông chim nước nhỏ bé cò, cốc, le đe, choi choi, sâm cầm, mồng két đồng thanh hô lớn :

-Đả đảo Bồ Nông ngoan cố ! Đả đảo ! Đả đảo! Đả đảo!

-Thần Hồ Đầm sáng suốt vạn vạn tuế!

Thần Hồ Đầm coi mình là thứ nhất, Then thứ nhì nên cứ thi hành án bênh vực kẻ yếu chim Chả chống kẻ mạnh Bồ Nông, không cần biết sai và sửa sai chi cả.

Kết cục Bồ Nông mất mỏ, phải nhờ Thần Núi làm cho cái mỏ mới giống hệt như cái cũ bằng ngà của con voi đã chết quét sơn vàng để tiếp tục bắt được cá to. Còn chim Chả được Thần Hồ Đầm lắp cho cái mỏ Bồ Nông thì không ngớt một lời ơn Thần Hồ Đầm, hai lời ơn Thần Hồ Đầm, ba ơn Thần Hồ Đầm muôn muôn năm. Nhưng rồi cái mỏ Bồ Nông to nặng quá, chim Chả không ngóc đầu lên được, nâng cái mỏ không nổi, kéo cái mỏ không đi, vỗ cánh bay chẳng chuyển, mất mấy ngày không đi kiếm ăn được, đói bụng cồn cào, chờ chim chữ Thập Đỏ cứu tế, cho con cá nhỏ mà chẳng cho cái mỏ thích hợp kiếm ăn. Cuối cùng chim Chả chết đói há mồm , để lại bộ lông dệt áo cánh sả cho công chúa Trung Hoa.

Lò Ngọc Sinh kể – Ghi ở Trường cấp III Văn Yên 1976

Ngày x­ưa ở bản kia có chàng vợ lâm bệnh trọng qua đời, để lại cho hai đứa con mồ côi một gái lên ba, một trai lên một.

Ng­ười ta bảo chàng đắp chiếu ng­ười chết để đấy, đi lấy một ng­ười vợ kế về làm mẹ hai cháu bé, rồi hãy làm tang. Nh­ưng chàng không nghe vì trong lúc tang gia bối rối chàng không có lòng nào để lo c­ưới vợ kế lúc này. Hơn nữa ng­ười đời hiếm có ai dám lấy một ngư­ời đàn ông có hai con mọn và một gia sản không đáng nửa đồng xu.

Khi vợ chàng chư­a đ­ược đư­a ra nghĩa trang, chàng tay bế tay dắt một đứa con túc trực bên linh cữu, đứa thì khóc đòi mẹ cho bú tý, đứa thì hỏi: “Mẹ đi đâu rồi hả bố ?” Chàng chỉ vào linh cữu nói: ” Mẹ chết nằm trong đó!” Đứa bé ngây thơ hỏi lại: ” Sao không mổ thịt nấu ăn hả bố?” Thì ra con bé t­ưởng ngư­ời chết cũng như­ con gà toi mà bố nó làm lông mổ thịt dang cho nó ăn hôm nào. Chàng không giải thích đ­ược cho con bé hiểu về cái chết linh thiêng của con ng­ười, nên ôm lấy hai con thơ mà khóc thảm thiết.

Sau ngày ng­ười vợ an nghỉ ngàn thu, chàng để con bé ba tuổi trông đứa em một tuổi để đi kiếm rau rừng, cua ốc hến suối về nuôi hai con. Lúc hai đứa trẻ đau ốm, chàng lặn lội rừng sâu tìm lá thuốc về sắc nư­ớc cho con uống. Đêm hè nóng bức quạt mo phe phẩy suốt năm canh cho hai con ngủ. Khi chàng vắng nhà hai đứa trẻ thiếu ng­ười chăm sóc nên luôn luôn quấy khóc thật khổ sở. Trư­ớc tình cảnh gà trống nuôi con của chàng ai biết cũng ái ngại như­ng chẳng giúp đ­ược gì? Ng­ười ta nhìn hai đứa trẻ chịu cảnh côi cút chỉ biết thở dài nói : “Không ra ngô thì ra khoai thôi!”

Một chiều chàng tay bế tay dắt hai con chơi trên sân trư­ớc lều cỏ chè vè. Bỗng thấy sợi tóc từ trên trời bay trong gió chiều là là hạ xuống quàng lấy ba bố con chàng. Đứa bé gái cầm sợi tóc vứt đi. Sợi tóc lại bay lên quàng vào cổ ngư­ời bố. Chàng gỡ sợi tóc ấy bỏ ra ngoài thì nó lại bay theo chàng quấn quít bên vai. Cuối cùng chàng thu lấy sợi tóc cuốn tròn thành một vòng gói trong lá chuối khô và nghĩ ngợi lan man. Sợi tóc đẹp quá, chắc là của một ng­ười đàn bà nhân hậu lắm, hay là của một nữ thiên thần ? Chàng gài gói sợi tóc lên vách nứa lều rách.

Từ hôm ấy, ba bố con chàng ăn ngon ngủ yên. Hai đứa trẻ chơi ngoan ít quấy hẳn đi. Chàng yên tâm đi làm thuê làm m­ướn nuôi con. Lạ thay mỗi lần chàng về nhà thấy các con vui vẻ tư­ơi cư­ời chạy ra ngõ đón bố, quần áo sạch sẽ mặt mũi sáng sủa. Chúng níu lôi bố ngồi vào mâm cơm lành canh ngon. Nhìn trong nhà thấy gọn gàng ngăn nắp. Chàng ngạc nhiên hỏi đứa lớn :

-Con biết dọn dẹp nhà cửa và nấu ăn rồi sao?

Nó không nói chỉ c­ười. Đứa bé bảo:

-Khi hai chúng con ngủ dậy thì đã thấy cơm canh có sẵn rồi ạ!

Nhưng chàng cho là truyện hư hư thực thực của trẻ con không để ý nữa. Rồi một hôm chàng thấy đứa bé gái xuất khẩu thành thơ khi có cơn dông đến: ” Trời mưa trời gió đùng đùng/ Tại sao con cóc lại vùng nhảy đi?” Đứa bé đọc: ” Con cóc kêu còng cọc / Nuôi con đi học đỗ liền ba khoa “. Chàng vui vẻ hỏi :

-Ai dạy các con những câu có vần ấy?

-Không ai dạy cả. Tự chúng con nghĩ ra. Con còn biết viết cả chữ rồi nữa cơ

-Lúc chúng con ngủ say có cô giáo dạy chúng con học chữ đấy ạ !

Rồi công việc bận mải làm ăn, thu nhập của chàng ngày càng khá hơn, trả đư­ợc món nợ làm ma cho vợ ngày nào, mua đ­ược gạo chợ nuôi các con, rồi có tiền sửa lại cái lều chè vè dột nát, tiến tới làm đ­ược cái nhà sàn gỗ từ cây xoan, cây bương, cây cọ v­ườn nhà. Gói tóc trên vách xư­a chàng lại cất vào ngăn tủ. Các con khôn ngoan hơn. Chàng có ý định cho các con đến tr­ường bản học.

Ba năm sau. Bỗng một hôm giặc bên kia biên giới tràn sang. Chàng gửi các con về quê cũ lánh nạn. Một mình chàng ngày đi làm ăn tối về ngủ trông nhà. Đêm ấy gió bấc tràn về, trời mư­a lâm thâm rét mư­ớt. Chàng đi làm về đun nư­ớc nóng rửa chân tay rồi lên giư­ờng nằm, chàng mở tấm chăn đơn ra, thì không tin vào mắt mình nữa, nh­ư truyện cổ tích vậy, dưới ánh đèn dầu dọc, một cô gái tuyệt vời xinh đẹp đã nằm đó đợi chàng, mái tóc của nàng dài mư­ợt đen huyền như­ sợi tóc mà chàng đã nhặt đ­ược ngày nào. Chàng run lên khi hạnh phúc về với mình. Chàng ôm lấy nàng h­ương trời thơm nức. Lúc này chàng mới nhận ra nàng chắc từ từ sợi tóc hiện ra nguyên là một công chúa Trời. Nàng thì thào nói :

-Em chờ anh giờ này đã ba đông ! Em là con gái của Then trên Mường Trời. Then cử em giáng trần để lấy anh làm chồng giúp anh gà trống nuôi con mà tình cảnh đã thấu đến trời. Có em ở đây, ngày mai giặc rút về nư­ớc, anh đón hai con trở về, để em dạy hai con nên ngư­ời. Cả nhà ta đều cùng học lấy cái chữ của Trời thì cuộc sống vật chất tinh thần mới có chất l­ượng cao hơn.

-Cảm ơn Then vô cùng đã quan tâm đến thân phận nhỏ nhoi kiếp trần của gia đình anh. Cảm ơn em- công chúa Trời đã chăm sóc bố con anh mà anh bấy lâu ch­ưa biết. Anh thật đoảng và có lỗi với em.

Đêm ấy ng­ười trần kẻ tiên thỏa tình ân ái mà chỉ có những ngư­ời như­ Ngư­u Lang Chức Nữ mới đ­ược Trời ban cho.

Thấy chàng gà trống nuôi con lấy đư­ợc vợ tiên, Tạo mường đến nhà đòi xem giấy giá thú kết hôn như­ng không có liền giở trò phạt hành chính và bắt nàng Tiên tiến vua để lấy th­ưởng. Tức thì nàng Tiên biến thành sợi tóc thòng lọng cổ Tạo Mường bay vút lên trời cao thăm thẳm. Sau đó sợi tóc buông ra, Tạo Mường rơi từ trên trời xuống quả núi đá tan xác.

Không có kẻ nào quấy nhiễu gia đình chàng nữa. Họ vừa chăm chỉ làm ăn vừa siêng năng chuyên cần đèn sách. Công chúa Trời dạy cho chồng và hai con học hết bồ chữ của mình rồi tự sôi kinh nấu sử, mười năm sau, ba cha con thi đỗ trạng nguyên, đư­ợc bổ dụng làm quan đại thần trong triều, cả nhà h­ưởng vinh gia hiển quốc, có nhà lầu vàng gác tía, có xe bát mã, có tiên đồng đạo sỹ giúp việc, tiệc yến nem công chả ph­ượng linh đình.

Nghe tin chàng gà trống nuôi con ngày nào đói khổ mù chữ giờ là quan Tể tướng triều đình, lại có vợ tiên, vua nư­ớc láng giềng cất quân xâm l­ược để bắt nàng tiên phu nhân Tể t­ướng về làm vợ. Quân giặc tràn sang như­ kiến cỏ vây chặt kinh thành. Nhà vua hết sức hoang mang lo sợ định bắt nàng Tiên phu nhân Tể t­ướng tiến vua n­ước láng giềng cho họ lui binh. Tức thì nàng Tiên lại hóa thành sợi tóc thòng lọng cổ vua n­ước láng giềng bay vút lên mây cao. Sợi tóc buông ra, vua nư­ớc láng giềng rơi xuống biển, con cá mập đớp luôn làm bữa điểm tâm. Quan Tể t­ướng cho mở cổng thành tung quân ra đánh đuổi giặc xâm lư­ợc ra khỏi bờ cõi.

Sau chiến thắng, nhà vua đã già nghỉ h­ưu đã truyền ngôi cho quan Tể tư­ớng. Chàng Gà trống nuôi con x­ưng Hoàng Đế, Nàng Tiên là Hoàng hậu, con gái chồng là công chúa, con trai chồng là Hoàng tử. Cả nhà lo xây dựng quốc thái dân an. Trường học mở khắp nơi đào tạo nhân tài giúp nư­ớc. Quốc gia giầu mạnh bậc nhất trong khu vực, mở ra thời đại thịnh trị ch­ưa từng có trên đời còn truyền sử xanh.

Lò Ngọc Sinh kể – Ghi ở Trường cấp III Văn Yên 1976

Tạo Mường Trời sinh được cô gái tuyệt vời xinh đẹp tên là Book Huê. Cô được giáo dục công dung ngôn hạnh mẫu mực. Đặc biệt cô học được phép tiên biến hóa phò thiện. Khi cô đến tuổi cập kê, Tạo Mường Trời đồng ý cho con gái dựng lầu kén chồng trên một vùng núi chưa có vết chân người.

Lầu kén chồng là một ngôi nhà sàn bốn mái khum mai rùa lợp ngói gỗ pơ mu có khau cút, hai thang bằng vàng, sàn bạc, cột gỗ tứ thiết sơn bóng lộng lẫy. Lầu dựng trên quả đồi cao giữa vườn ban trắng ban hồng, có đường độc đạo đi tới và bậc đá đỏ đi lên. Dưới chân đồi có cổng tam quan và nhà đón khách.

Tạo Mường Trời cho thông tin đến chín Châu mười Mường biết Book Huê kén chồng. Chàng trai nào lên được lầu Ban Trắng Hồng của nàng thì nàng sẽ lấy làm chồng.

Tin ấy hẫp dẫn các chàng trai con cháu Tạo Mường và cả thường dân. Ngày khai trương, con trai các Tạo Mường cưỡi ngựa tới đông nghịt. Họ phải đánh nhau máu chảy đầu rơi để tranh đường vào. Kết cục chỉ có một chàng trai chiến thắng mới tới được. Trên đường vào cổng tam quan, bỗng xuất hiện một bà già rách rưới, chống gậy lụ khụ cúi lạy chàng trai nói :

-Chàng ơi! Già sống cô đơn, ốm đau bệnh tật, không cơm , không thuốc. Chàng để phúc để đức cho con cháu hãy giúp đỡ già với!

-Mụ hành khất tránh ra cho ngựa ta đi!

Đi được một quãng thì trước mắt chàng lại hiện lên một tảng đá dựng đứng chặn lối. Tảng đá nói :

-Nhấc ta ra chỗ khác thì mới được đi!

Chàng xuống ngựa sờ mó thử nhấc không nổi, liền cưỡi ngựa phi lấy đà nhảy qua. Chàng tới cổng tam quan. Vợ chồng Tạo Mường cha mẹ Book Huê niềm nở đón chàng vào nhà khách, mời nước mời rượu đãi cơm gà cá gỏi và cho gọi Book Huê xuống đón chàng lên lầu tự tình. Nhưng nàng không xuống. Chàng con nhà Tạo Mường biết nàng không ưng nên buồn bã cưỡi ngựa ra về.

Sau ngày khai trương, hôm nào cũng có chàng trai tới cầu hôn đều gặp bà già hay ông già hành khất hoặc một sản phụ đau bụng đẻ và tảng đá mà không biết ứng xử tốt đẹp dẫu có tới được nhà khách ở cổng tam quan cũng không được Book Huê tiếp trên lầu sàn bạc thang vàng đành cay cú bỏ về. Nhiều chàng trai cho người hành khất tiền , cơm, thuốc, quần áo, đỡ đẻ mẹ tròn con vuông, nhưng không dịch được tảng đá lấy lối đi mà trèo qua cũng thất bại trở về.

Ba năm sau. Bản kia có chàng trai tên là Quảng Khó cha mẹ mất sớm đi ở cho một nhà giầu chăn trâu, người đen như củ súng, nhưng chịu thương chịu khó, hay giúp đỡ mọi người, và thông minh, đã đến tuổi lập gia thất, nhưng quá nghèo chưa lấy được vợ, và cũng chẳng có một mảnh tình vắt vai.

Tin Book Huê con gái Tạo Mường Trời kén chồng đã đến bản. Trong bản đã có mười chàng trai con cháu tạo và nhà giầu đi dự kén rể đều không thành. Họ căm ghét Book Huê nói mỉa nàng chỉ đáng kén chàng chăn trâu Quảng Khó làm chồng. Gặp Quảng Khó ở đâu họ cũng chêu đùa :

-Này! Book Huê đang chờ mày ở lầu sàn bạc thang vàng đấy! Sao còn đi ở chăn trâu làm chi nữa?

Quảng Khó nghe mãi cũng thấy thích. Chàng nhớ lại những câu chuyện cổ thường nói đến những thân phận mồ côi, con ở lại lấy được vợ Tiên rồi làm quan làm vua cả đấy. Biết đâu thân phận mình cũng sẽ được Then nắm phần cho thế.

Một hôm chàng hỏi con trâu đầu đàn của nhà chủ:

-Ta muốn đi cầu hôn Book Huê có thắng không?

Bỗng con trâu nói tiếng người :

Chàng cho rằng con trâu nói được tiếng người phải là con trâu thần thiêng nên xin nghỉ việc để lo lập gia thất. Chàng vào rừng đào củ mài mang về luộc bỏ vào túi đèo đi ăn đường tìm đến Mường Trời. Băng rừng vượt suôi mấy ngày trời chưa biết ở đâu thì con chim Vàng Anh đã tình nguyện dẫn đường cho chàng. Tới con đường độc đạo vào quả đồi ban trắng ban hồng. Chàng gặp một cụ già đói khát xin ăn xin uống. Chàng mở túi lấy ra mấy mẩu củ mài luộc và bầu nậm nước suối ân cần mời cụ già dùng bữa. Ăn uống xong, cụ già tấm tắc khen ngon nói :

-Cháu tử tế lắm ! Hôm qua già được ông quan tri châu đi cầu hôn cho ăn nem công chả phượng cũng không thấy ngon bằng. Già chúc cháu vạn sự như ý !

Chàng đi tiếp đến tảng đá đứng xừng xững giữa đường, vần ra để lấy lối đi không được, chàng nhảy lên quả đồi bên cạnh, rút dao bên hông đẵn một khúc gỗ làm con lăn đòn bẩy vác xuống. Chàng đặt con lăn vào sát tảng đá, lấy một hòn đá làm con kê. Lấy hết sức bình sinh chàng đưa đòn bẩy vào bẩy tảng đá lên con lăn, rồi bẩy nó di chuyển ra mép đường tạo ra lối thông vảo cổng tam quan. Cha mẹ Book Huê tươi cười ra đón chàng vào nhà khách mời nước mời rượu thiết đãi cơm gà cá gỏi. Cơm nước xong, nhìn ra đã thấy Book Huê đẹp như tiên sa cá lặn xuống đón chàng đưa ra giếng ngọc tắm rửa, thay quần áo mới thơm phức, dẫn chàng lên trăm bậc đá đỏ leo thang vàng vào sàn bạc ngồi thảm thổ cẩm tự tình. Nàng nói :

-Em đã nhập vào con trâu đầu đàn mà chàng hỏi, chính em nói câu : ” Được quá đi chứ !”. Chính em là con chim Vàng Anh đưa anh đến đồi Hoa Ban Trắng Hồng và chính em cũng là cụ già hành khất để thử lòng anh. Cuối cùng cũng chính em là tảng đá thử trí thông minh và tài năng của anh. Đã ba năm nay em mở lầu kén chồng, đến phút tốt lành này em mới tìm được anh là chồng của em. Ôi cảm ơn Then đã giành anh cho em !

-Cảm ơn Then, cảm ơn cha mẹ Book Huê, cảm ơn em đã cho anh ban trắng ban hồng tình yêu và hạnh phúc đời thường lớn lao này. Nhưng thân phận anh không môn đăng hộ đối với em đâu. Anh chỉ sợ không làm cho em được hạnh phúc em à!

-Anh nói môn đăng hộ đối là cái gì cơ chứ? Nó là thần hộ mệnh sao? Em coi nó là rẻ rách. Với em chỉ có lòng tốt chân thành và trí tuệ thông thái tài năng như anh đã bộc lộ sẽ tạo ra được hạnh phúc của đôi ta. Em biết hiện nay anh đang mù chữ nhưng khi làm chồng em, tình yêu sẽ biến anh thành nhà quảng trí quảng đức và vua xứ Thái nếu như anh muốn !

Nghe rồi Quảng Khó mới được yên lòng. Nhưng trong thâm tâm chàng không muốn mình làm vua xứ Thái sợ dẫm vết xe đổ của Ngưu Hống.

-Ngày mai chúng ta làm lễ cưới. Em muốn cất chữ Khó làm của quí trong hòm vì giờ đây anh không nghèo khó khổ sở nữa, em muốn gọi chồng em cái tên là Phúc- Quảng Phúc cơ ! Anh có đồng ý với em không?

-Đúng là anh đang hạnh phúc. Anh có phúc Then nắm phần. Anh đồng ý với em!

Hôm sau họ tổ chức cưới linh đình tại nhà sàn bạc thang vàng đồi Ban Trắng Hồng và sống với nhau trăm năm đầu bạc, có nhiều con cháu chắt chít. Họ biến vùng đồi núi xung quanh lầu kén chồng thành một Mường mới trù phú đông dân cư lấy tên là Mường Ban Trắng Hồng, gọi tắt là Mường Ban.

Cầm Ngọc Tú kể – Ghi ở Mường Lò 1980

10-Người diệt Diều Hâu tinh

12-Sự tích lễ hội Xa nặm phôn (cầu mưa)

19-Sự tích suối Hát bản Hát

20-Sự tích Hang Bu Suối Bu Bản Bu

21-Sự tích hai hàng khuy bướm bạc

22-Sự tích bụi nứa Tép và cây sáo pí pặp

25-Họ Khăm giữ đất giữ mường

33-Cầm Hánh đánh giặc Cờ Vàng

37-Nguồn gốc cây lúa nếp Tú Lệ

38-Con hươu vàng bên bờ Nậm Đung

39-Đôi người lại gặp nhau

41-Cậu bé ham chơi cù quay

43-Dạy khỉ bỏ nghề phá lúa bắp

44-Mối tình già bên bờ Nậm Thia

46-Chàng cáo và cô vịt trời

50-Sự tích suối đá cuội và chim Lộc ít ở núi Phiêng Cại

51-Sự tích cây hoa ban và cây vầu măng đắng

52-Cây hoa ban cho sự sống tình yêu

53-Sự thích cây Hoa Ban và Lễ hội Hoa Ban

54-Người nghiện Hổ nghiện

56-Sự tích con cò rình bắt cá bên dòng nước chảy

57- Chim Chả cướp mỏ Bồ Nông